Việt Nam trên báo Mỹ: Tù binh của quá khứ

Trong hai thập kỷ sau chiến tranh, những nghi ngờ và bất đồng xoay quanh số phận của các tù binh chiến tranh (POW) và lính Mỹ mất tích (MIA) là một trong những rào cản lớn đối với việc bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ. Tạp chí Phương Đông giới thiệu với bạn đọc trích đoạn bài viết “Prisoners of the past” (Tù binh của quá khứ) của nhà báo Neil Sheehan, đăng trên Tạp chí The New Yorker số ra ngày 24/5/1993. Bài viết này khám phá sự phức tạp và tác động của vấn đề POW/MIA đối với tiến trình hàn gắn và thúc đẩy quan hệ giữa hai quốc gia.

***

“Bình thường hóa” với Hoa Kỳ đã trở thành một nỗi ám ảnh ở Việt Nam. Khi vợ tôi, Susan, và tôi đến Sài Gòn vào tháng 01/1993, người Việt Nam và cộng đồng nước ngoài ngày một đông đảo ở thành phố này đang tập trung theo dõi những ngày cuối cùng của nhiệm kỳ Tổng thống George Bush. Ông đã nới lỏng lệnh cấm vận kinh tế vào giữa tháng 12 để đáp lại sự hợp tác của Việt Nam trong việc giải quyết số phận của những người Mỹ mất tích trong chiến tranh, cho phép các doanh nghiệp Mỹ mở văn phòng và đàm phán các hợp đồng sẽ có hiệu lực sau khi lệnh cấm vận kết thúc. Sài Gòn tràn ngập tin đồn rằng ông sẽ đi đến cùng và dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận. Một doanh nhân trẻ người Mỹ đang cố gắng khởi động một công ty tư vấn và tiếp thị đã rất hào hứng khi nhìn thấy một đội công nhân đang dọn dẹp khuôn viên của tòa nhà sáu tầng trước đây là Tòa đại sứ Mỹ, và sơn lại mặt tiền tầng trệt. Một lãnh đạo ngân hàng người Anh có nguồn tin không thể bác bỏ ở Washington nói rằng Tổng thống sắp ký sắc lệnh hành pháp. Nhưng đến ngày Lễ nhậm chức, rõ ràng tất cả những gì George Bush định làm là để lại Việt Nam cho Bill Clinton giải quyết. Tâm trạng thất vọng bao trùm. (Tòa đại sứ cũ chỉ đơn thuần được tân trang lại để phục vụ cho một bộ phim về chiến tranh do một công ty điện ảnh Hàn Quốc thực hiện.)

Bất chấp những lý do chính đáng để dỡ bỏ lệnh cấm vận và làm hòa với Việt Nam, phong trào vận động POW/MIA đã khiến Bill Clinton và chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ bị kẹt trong bóng ma của chiến tranh.

Người Việt Nam cũng sẽ phải đợi Bill Clinton. Chính sách của Mỹ vẫn bị ám ảnh bởi lòng hận thù và giận dữ còn sót lại từ chiến tranh, bị cản trở bởi các nhóm vận động POW/MIA và huyền thoại rằng những người Mỹ bị bắt vẫn còn sống và đang bị giam giữ trong các nhà tù bí mật. Qua nhiều năm, các điều tra viên của Lầu Năm Góc đã xem xét hơn 1.600 trường hợp “nhìn thấy” tù binh Mỹ ở Đông Dương. Ngoại trừ khoảng 300 trường hợp do Robert Garwood, một lính thủy đánh bộ Mỹ gia nhập hàng ngũ Việt Cộng (ông đã tự nguyện trở lại Hoa Kỳ vào năm 1979) “trông thấy”, không một báo cáo nào được chứng minh là đúng. Tuy nhiên, 20 năm sau khi Hoa Kỳ rút những người lính cuối cùng khỏi Việt Nam, huyền thoại này vẫn tồn tại. Một lá thư gây quỹ hồi tháng 3 từ một nhân tố đáng kính trong cuộc vận động, Liên đoàn Quốc gia Gia đình POW/MIA gồm 3.800 thành viên, đã thay mặt “POW/MIA của Mỹ, những người đã phục vụ trong Chiến tranh Việt Nam – và có thể vẫn đang phục vụ” kêu gọi đóng góp. Vào giữa tháng 4, khi dường như chính quyền Clinton có thể sẽ nới lỏng hơn nữa lệnh cấm vận bằng cách cho phép Việt Nam thanh toán khoản nợ cũ với Quỹ Tiền tệ Quốc tế, qua đó giúp quốc gia này đủ điều kiện nhận các khoản vay phát triển quốc tế trong tương lai, thì câu chuyện huyền thoại lại rẽ sang một hướng mới và kỳ lạ hơn. Stephen J. Morris, một nhà nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Nga thuộc Đại học Harvard, trao cho tờ New York Times một tài liệu được cho là báo cáo tình báo của Liên Xô, trong đó viết rằng những người Cộng sản Việt Nam đang giữ 1.205 tù binh Mỹ – nhiều gấp đôi số người được thả khi Hoa Kỳ rút quân theo Hiệp định Paris vào tháng 01/1973. Công bố này đã châm ngòi cho một cuộc tranh luận nảy lửa với những lời chỉ trích mới nhằm vào sự giả dối của Việt Nam và cáo buộc rằng chính quyền Hà Nội đã sát hại các tù binh bị che giấu.

Tù binh Mỹ được trao trả tại sân bay Gia Lâm năm 1973. Ảnh: Không quân Hoa Kỳ

Huyền thoại POW/MIA bắt nguồn từ thời chiến tranh trong một nước cờ chính trị của Richard Nixon. Để câu giờ và đánh lạc hướng dư luận khỏi thực tế rằng thay vì kết thúc chiến tranh, ông ta đang cố gắng giành chiến thắng bằng chiến lược “Việt Nam hóa” – chuyển dần gánh nặng chiến đấu từ Hoa Kỳ sang quân đội Sài Gòn – Nixon đã phát động một chiến dịch nhằm tập trung sự thù hận của công chúng vào phía Việt Nam vì giam giữ tù binh Mỹ. Nước cờ chính trị này đã phát huy tác dụng tuyệt vời trong một thời gian. Một bộ phận công chúng dường như có ấn tượng rằng Tổng thống chỉ đang tiến hành chiến tranh để giải cứu POW, thay vì làm tăng số lượng của họ, kéo dài thời gian giam giữ và khiến 21.000 người Mỹ nữa thiệt mạng do xung đột kéo dài. Cuối cùng, nước cờ này phản tác dụng, và một trong những lý do Nixon phải ký Hiệp định Paris là để đưa tù binh trở về trong Chiến dịch Về nhà (Homecoming), trong đó 591 tù binh Mỹ được trả tự do. Tuy nhiên, không chắc liệu có còn phi công nào bị bỏ lại nơi rừng núi ở Lào không. Những lời dối trá và bầu không khí độc hại của chiến tranh cũng khiến người ta nghi ngờ rằng nhiều lính Mỹ đã bị bỏ mặc trong các nhà tù của cộng sản. Tâm lý này là dễ hiểu.

Trong những năm sau đó, các hội đồng thẩm định quân sự đã điều tra từng trường hợp mất tích trong chiến tranh, và xác định rằng tất cả đều đã chết. Chỉ có một viên phi công, Cơ trưởng Charles Shelton, người bị bắn hạ ở Lào vào tháng 4/1965, vẫn được xem là POW “vì mục đích biểu tượng” theo giải thích của Bộ Quốc phòng – mặc dù nhiều báo cáo cho thấy Shelton có lẽ đã chết trong tù vào những năm 1960. (Niềm hy vọng phũ phàng này rõ ràng chẳng thể an ủi vợ ông, Marian, bà đã tự sát bằng súng vào năm 1990. Con trai cả của họ, Charles Shelton, Jr., một linh mục Công giáo La Mã, nói rằng anh tin cha mình vẫn còn sống và đang ở Hoa Kỳ; ông đã được Lầu Năm Góc bí mật đưa về theo chương trình bảo vệ nhân chứng của liên bang).

Công chúng vẫn luôn nhận được một ấn tượng khác. Đầu tiên là Chính quyền Ford và sau là Carter coi việc Việt Nam không “đưa ra được một thống kê đầy đủ và chính xác về người Mỹ mất tích”, theo lời của Gerald Ford, là một lý do tiện lợi để không công nhận đất nước này và thi hành cấm vận (không ai đề cập đến việc Việt Nam cũng có hàng trăm ngàn người mất tích trong chiến tranh và sẽ không bao giờ có thể xác định được). Số lượng [người Mỹ mất tích] đã được nhân đôi bởi một thủ thuật kế toán. Trong chiến tranh, những người không rõ tung tích được phân thành hai nhóm: Tử trận/Không tìm thấy thi thể, đối với những người được xác nhận là đã chết, và Mất tích trong chiến đấu, đối với những người không rõ số phận. Cả hai nhóm này, với số lượng gần như bằng nhau trong thời chiến, đã được gộp làm một, và báo chí liên tục đưa cho công chúng số liệu mà không hề giải thích, rằng khoảng 2.400 người Mỹ vẫn đang “Mất tích trong chiến đấu”.

Khi Ronald Reagan nhậm chức vào năm 1981, hy vọng giải cứu những tù binh còn sống đã được Tổng thống bảo trợ. Vấn đề POW/MIA được nâng lên thành “ưu tiên cao nhất của quốc gia” như Reagan đã tuyên bố. Ann Mills Griffiths, Giám đốc điều hành của Liên đoàn Quốc gia Gia đình POW/MIA, được bổ nhiệm làm thành viên của một nhóm công tác đặc biệt trực thuộc Hội đồng An ninh Quốc gia.

Hiện tại, Hoa Kỳ đang chi ít nhất 100 triệu đô la mỗi năm cho các nỗ lực POW/MIA. Khía cạnh chính trị của vấn đề này đã thúc đẩy chính quyền Bush tái lập chức vụ thời chiến Phó Phụ tá Bộ trưởng Quốc phòng phụ trách vấn đề POW/MIA vào năm 1991, và vào đầu năm ngoái, thành lập một tổ chức quân sự mới mang tên Joint Taskforce-Full Accounting (JTF-FA: Lực lượng Đặc nhiệm Liên hợp tìm kiếm quân nhân Mỹ mất tích) do một Thiếu tướng quân đội chỉ huy. Quân đội, vốn khó có thể bị đổ lỗi cho chi phí của những gì họ được lệnh thực hiện, đã khẩn trương bắt tay vào việc hoàn thành nhiệm vụ của mình. JTF-FA tiến hành tìm kiếm hồ sơ, tài liệu và đi khắp Việt Nam, nơi phần lớn công việc đang được triển khai, cũng như Campuchia và Lào, phỏng vấn người dân và cựu chiến binh ở phía bên kia, khai quật các địa điểm có thể là nơi chôn cất quân nhân hoặc nơi máy bay rơi. Khoảng 350 nam nữ quân nhân và nhân viên dân sự, chẳng hạn như các chuyên gia tình báo, được cắt cử tới hoặc hoạt động gắn liền với lực lượng đặc nhiệm, cùng vài trăm người nữa đang làm việc về các vấn đề POW/MIA ở các đơn vị khác thuộc Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương, tại các cấp cao hơn ở Lầu Năm Góc, và những nơi khác ở nước ngoài.

Tổng thống Bill Clinton thăm một điểm khai quật của JTF-FA ở Vĩnh Phúc, ngày 18/11/2000. Ảnh: Sharon Farmer

Tiền thuê một khu đất rộng ba mẫu ở Hà Nội, được gọi là The Ranch, mà nhóm công tác ở Việt Nam sử dụng làm văn phòng và chỗ ở, là 145.200 đô la mỗi năm, được trả cho Chính phủ Việt Nam. Hầu hết thực phẩm được chuyển về từ Thái Lan mỗi tuần một lần bằng máy bay vận tải C-130 của Không quân Hoa Kỳ. Hiện tại, có khoảng 17 người đang làm việc tại Hà Nội dưới quyền một Trung tá quân đội. Ngoài ra, hai nhóm ba người làm công tác lưu trữ và nghiên cứu đang rà soát các hồ sơ ở Đà Nẵng và Sài Gòn. Bảy nhóm 10 người đang dành một tháng khảo sát và khai quật các địa điểm, sau đó về Hawaii một tháng để nghỉ ngơi và đánh giá kết quả, rồi trở lại Việt Nam một tháng nữa. Ở Hà Nội và trên thực địa, người Mỹ làm việc với một tổ chức đối tác được biết đến với tên gọi Cơ quan Việt Nam tìm kiếm người mất tích (VNOSMP). Việt Nam không có đủ nguồn lực để chi trả cho các hoạt động từ phía họ, vì vậy VNOSMP chủ yếu được Hoa Kỳ tài trợ. Lực lượng Đặc nhiệm Liên hợp trang bị cho nhân sự của họ mọi thứ, từ giày cho đến dao rựa và máy tính cho văn phòng của họ tại Hà Nội. Hoa Kỳ trả cho nhà chức trách Hà Nội tới 40 đô la một ngày – một khoản tiền khá lớn đối với một quan chức Việt Nam – cho công việc của một số thành viên VNOSMP khi họ làm việc với các nhóm Mỹ. Bộ Quốc phòng cũng chi trả cho một công ty dân sự, chi nhánh của Lực lượng Không quân Việt Nam, gọi là Tổng công ty bay dịch vụ Việt Nam, để chở các nhóm đến những địa điểm khai quật trên khắp cả nước bằng máy bay trực thăng MI-8 của Liên Xô. Theo Ann Mills Griffiths, mỗi lần đưa bảy nhóm vào Việt Nam để làm việc trong vòng 1 tháng sẽ mất tới 500.000 đô la.

Gia đình của những người đã mất có quyền được cung cấp một hình thức báo cáo. Câu hỏi đặt ra là với giá bao nhiêu. Năm 1992, các nhóm đã tìm được 58 bộ hài cốt. Hầu hết được cho là của quân nhân Hoa Kỳ, mặc dù không phải tất cả đều có thể xác định danh tính. Với chi phí 100 triệu đô la một năm, mỗi bộ hài cốt tiêu tốn 1,7 triệu đô la. Số lượng hài cốt quân nhân Hoa Kỳ được xác định danh tính trong năm 1992 ít hơn rất nhiều – chỉ có bảy – vì quá trình này là một nỗ lực vất vả có thể kéo dài từ ba tháng đến vài năm. Các chuyên gia pháp y tại Phòng thí nghiệm Nhận dạng Trung tâm của Quân đội Hoa Kỳ ở Hawaii phải sắp xếp và chắp ghép các mảnh xương, răng. Sau đó, kết luận của họ cần phải được chấp nhận. Sau khi một góa phụ từ chối chấp nhận hài cốt được xác định là của chồng mình, Quân đội Hoa Kỳ đã bắt đầu cho phép các gia đình thuê chuyên gia cố vấn bên ngoài, chi phí do chính phủ chi trả, để thẩm định công việc của nhân viên phòng thí nghiệm.

Cái giá không thể chỉ được đo bằng tiền. JTF-FA đã xác định đủ các điểm khai quật để tiếp tục hoạt động trong ít nhất hai năm tới, và kỳ vọng sẽ tìm thêm được các điểm mới trong khoảng thời gian đó. Tướng John W. Vessey, Jr., một cựu Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, người đã cống hiến hết mình để giải quyết vấn đề POW/MIA – đầu tiên với tư cách đặc phái viên của Tổng thống Reagan, sau đó là Bush, và bây giờ là Clinton – dự đoán sẽ mất từ 5 đến 20 năm nữa để điều tra tất cả các địa điểm tiềm năng và làm rõ những chi tiết cuối cùng về các quân nhân mất tích. Bay bằng trực thăng và khai quật các địa điểm chôn cất quân nhân hoặc nơi máy bay rơi trong địa hình và thời tiết của Đông Dương vốn dĩ là công việc nguy hiểm và có hại có sức khỏe. Đến nay mới chỉ có vài ca sốt rét, nhưng khả năng cao là sớm muộn gì cũng sẽ có người bị thương nặng hoặc tử vong.

Đến giữa tháng 4, số lượng quân nhân Mỹ mất tích đã giảm từ 2.400 xuống còn 244 “trường hợp mâu thuẫn”. Đó là những trường hợp mà các cơ quan rà soát từ lâu đã tuyên bố rằng họ đã chết, nhưng Lầu Năm Góc quyết định xem xét lại một lần nữa vì tình hình thực tế cho thấy về mặt lý thuyết, có khả năng, dù mong manh, rằng họ có thể vẫn còn sống. Ủy ban Đặc biệt của Thượng viện về các vấn đề POW/MIA, đứng đầu là Thượng nghị sĩ bang Massachusetts John Kerry, một cựu binh từng được trao huân chương trong Chiến tranh Việt Nam, đã khép lại cuộc tìm kiếm kéo dài 15 tháng với một báo cáo công bố vào tháng 1 rằng không có “cơ sở khích lệ” nào để tin rằng có người còn sống trong số 244 trường hợp đó. Các điều tra viên từ Cục Tình báo Quốc phòng của Lầu Năm Góc cũng đã kết luận về 43 trong số 135 trường hợp khác mất tích ở Việt Nam rằng họ đã tử trận (phần lớn nỗ lực điều tra đã tập trung vào các trường hợp ở Việt Nam. Ngoài ra còn có 90 trường hợp mâu thuẫn ở Lào và 19 trường hợp ở Campuchia). Các đối tác Việt Nam muốn khép lại 96 trong số 135 trường hợp này, nhưng các nhà điều tra Hoa Kỳ vẫn muốn để ngỏ các trường hợp đó để có thể nói với các gia đình rằng “chúng tôi đã cố gắng hết sức”.

Một phái đoàn do Edmund Muskie, cựu Thượng nghị sĩ và Ngoại trưởng dưới thời Carter, dẫn đầu đã bay đến Hà Nội vào nửa đầu tháng 4 và nhận được lời hứa cho phép tiếp cận hồ sơ của Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam. Những hồ sơ này chứa các cuộc thẩm vấn POW và những thông tin khác mà các điều tra viên muốn có để giải quyết thêm các trường hợp mâu thuẫn. Thông báo về cuộc hợp tác mới này được đưa ra sau khi Tướng Vessey, đặc phái viên của Tổng thống về các vấn đề POW/MIA, đến Hà Nội vào ngày 18 tháng 4. Ngoại trưởng Warren Christopher cũng đưa ra một tuyên bố hòa giải. Trở ngại chính thức cuối cùng trong việc hòa giải với Việt Nam, “vấn đề tù binh còn sống” mà đại diện là các trường hợp mâu thuẫn, bắt đầu phai mờ dần. Chính phủ Hoa Kỳ đã sẵn sàng cho phép giải quyết nợ của Việt Nam trong cuộc họp của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) vào cuối tháng. Thế rồi, Stephen Morris, một học giả người Úc với những bài viết luôn thể hiện sự thù địch với Việt Nam, đã chuyển cho Celestine Bohlen, thuộc phân xã Moscow của tờ Times, một tài liệu được cho là của tình báo Xô Viết.

Bài báo của Celestine Bohlen trên tờ New York Times số ra ngày 12/4/1993

Bài báo trên trang nhất tờ Times số ra thứ Hai, ngày 12 tháng 4, do bà Bohlen đưa tin từ Moscow, tạo ấn tượng rằng bà đang viết về một tài liệu thật của Việt Nam. “Tài liệu được mô tả là một báo cáo tuyệt mật do một tướng lĩnh cấp cao của Bắc Việt Nam viết và được gửi đến Bộ Chính trị Đảng Cộng sản ở Hà Nội vào tháng 9/1972 cho biết Bắc Việt Nam đã giữ 1.205 tù binh Mỹ”, bài viết mở đầu như vậy. “Báo cáo này đã được các chuyên gia hàng đầu xác thực và được lưu hành trong các cơ quan chính phủ Hoa Kỳ. Một số chuyên gia gọi đó là “chứng cớ rõ ràng” cho thấy Hà Nội đang che giấu thông tin về số phận của các tù binh Mỹ ở Việt Nam… Tác giả bản báo cáo, Tướng Trần Văn Quang, khi đó giữ chức Phó Tham mưu trưởng Quân đội Bắc Việt, đã viết “1.205 tù binh Mỹ bị giam trong các nhà tù ở miền Bắc Việt Nam – đây là con số rất lớn”. Bà trích lời ông Morris: “Đây là vụ bắt giữ con tin lớn nhất trong lịch sử chính sách đối ngoại Hoa Kỳ”.

Chỉ khi đọc kỹ toàn bộ câu chuyện của bà Bohlen, người ta mới có thể nhận ra rằng thứ mà bà nhận được là một báo cáo tình báo của Liên Xô được cho là bản dịch của một báo cáo do Tướng Quang viết. Hơn nữa, hóa ra “những chuyên gia hàng đầu” mà bà cho là đã xác thực tài liệu này không phải là các chuyên gia độc lập về Việt Nam. Thay vào đó, họ là các nhà nghiên cứu về Liên Xô, chẳng hạn như Zbigniew Brzezinski, người mà, theo ông Morris, đã nói rằng tài liệu mà ông ta tìm thấy tại kho lưu trữ ở Moscow của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô là một báo cáo tình báo Liên Xô thật sự. Ai đã từng làm việc với các báo cáo tình báo sẽ mau chóng nhận ra rằng chúng có thể chính xác, chúng có thể sai một phần, hoặc chúng có thể sai hoàn toàn, bởi đôi khi các nguồn tin bịa đặt thông tin để kiếm tiền.

Dựa trên bằng chứng không chắc chắn này, người Việt Nam lập tức bị kết tội và lên án. Trong một cuộc phỏng vấn với tờ Times số ra ngày hôm sau, ông Brzezinski, một người bài Nga gốc Ba Lan từ lâu đã thù địch với Việt Nam vì ông coi họ là con tốt của Liên Xô (ông đã ủng hộ việc Trung Quốc xâm lược Việt Nam năm 1979, khi ông là cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Carter), đã so sánh với vụ Stalin xử tử hàng nghìn sĩ quan Ba Lan trong khu rừng Katyn gần Smolensk vào năm 1940. Ông nói rằng sau khi nghiên cứu tài liệu, ông tin rằng “rất có khả năng người Việt Nam đã bắt hàng trăm sĩ quan Mỹ và bắn chết họ trong một vụ thảm sát dã man giống như ở khu rừng Katyn”. Ông lặp lại cáo buộc của mình – “với sự buồn bã và miễn cưỡng”, ông nói – trong chương trình “MacNeil/Lehrer News-hour” tối hôm đó, và nói rằng ông nghĩ Hoa Kỳ có “quyền yêu cầu Chính phủ Việt Nam hiện tại đưa những người chịu trách nhiệm ra xét xử tội phạm chiến tranh”.

Henry Kissinger, người chưa bao giờ tha thứ cho Việt Nam vì đã qua mặt ông trong các cuộc đàm phán ở Paris, xuất hiện cùng ông Brzezinski trong chương trình này. Ông tỏ ra thận trọng hơn nhiều, nói rằng ông “không thể đưa ra nhận định” về giả thuyết của ông Brzezinski về vụ xử tử hàng loạt, bởi ông không hiểu tại sao người Việt Nam “lại muốn giữ những tù nhân mà họ không thừa nhận”. Nhưng ông nói thêm, “nếu tài liệu đó là thật, và thật khó tưởng tượng ai có thể làm giả nó, với mục đích gì, thì tôi nghĩ rằng một tội ác khủng khiếp đã xảy ra”. Ông Morris, khách mời mở màn trong chương trình, cho biết ông có thể đảm bảo rằng tài liệu đó là một bản dịch “chính xác” của một báo cáo được gửi đến Bộ Chính trị Việt Nam, bởi vì Tướng Pyotr Ivashutin, người đứng đầu cơ quan tình báo quân sự Liên Xô trong 25 năm, đã ký vào bản tóm tắt kèm theo. “Bây giờ, việc ông ấy ký vào tài liệu này cho thấy lãnh đạo Liên Xô tin rằng đây là một tài liệu đích thực của Việt Nam, và tôi là người có sự tôn trọng lớn nhất đối với năng lực chuyên môn của tình báo quân sự Liên Xô”, ông Morris nói.

Tài liệu này bị nghi ngờ không phải là một báo cáo tình báo của Liên Xô; còn với tư cách là một tài liệu của Việt Nam, nó gần như chắc chắn là giả. Trước tiên, Tướng Trần Văn Quang không phải là Phó Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam vào tháng 9/1972. Ông đã từng là Phó Tham mưu trưởng vào năm 1959 – 1960 và được tái bổ nhiệm vào chức vụ này năm 1974, nhưng vào thời điểm ông được cho là đang đưa ra báo cáo và trong bảy năm trước đó, ông là chỉ huy mặt trận dọc theo giới tuyến giữa Bắc và Nam Việt Nam, nằm xa phía nam Hà Nội. Trong tài liệu được cho là báo cáo gửi tới Bộ Chính trị, Tướng Quang nói về các cuộc họp bí mật với một tướng miền Nam Việt Nam tên là Ngô Đình Dzu. Không có người nào như vậy. Nhân vật có các hoạt động được mô tả trong tài liệu là sự tổng hợp của một tướng miền Nam Việt Nam tên là Ngô Dzu và một luật sư ở Sài Gòn từng tranh cử Tổng thống tên là Trương Đình Dzu, cả hai đều là những người mà tôi biết. Một sự kiện mà Tướng Quang nhắc đến vài lần trong “báo cáo tháng 9/1972” như thể đã diễn ra, là Hội nghị lần thứ 23 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng đến tháng 12/1974 sự kiện đó mới diễn ra. Một chi tiết nhỏ nhưng quan trọng khác là Quang được cho là mang cấp bậc Trung tướng – một cấp bậc mà đến năm 1974 ông mới được thăng quân hàm.

Nhà tù Hỏa Lò năm 1973. Ảnh: Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ

Hệ thống nhà tù miền Bắc Việt Nam dành cho tù binh Mỹ được mô tả trong báo cáo không hề giống với những gì các tù binh đã miêu tả sau khi được thả vào năm 1973. Ví dụ, tài liệu viết rằng các tù binh được phân biệt nghiêm ngặt theo cấp bậc tại các nhà tù khác nhau, với “nhà tù đặc biệt” cho những người cấp cao nhất. Thực tế không phải như vậy: có nhiều nhà tù khác nhau, nhưng tù binh Mỹ ở mọi cấp bậc đều bị trộn lẫn trong đó. Báo cáo cho biết sau nỗ lực thất bại của Hoa Kỳ vào năm 1970 để giải cứu các tù binh bị giam giữ tại Sơn Tây, phía Tây – Bắc Hà Nội, các tù binh đã được phân tán từ bốn nhà tù lớn vào mười một nhà tù nhỏ hơn. Thực tế là ngược lại: họ đã được tập trung lại. Báo cáo viết rằng tất cả các tù binh đều bị giam giữ ở miền Bắc. Điều này không đúng: một số người vẫn còn ở các trại giam trong rừng rậm ở Campuchia, gần biên giới với miền Nam. Các số liệu cũng không hợp lý. Báo cáo cho biết tính đến tháng 9/1972, đã có 624 phi công bị bắt ở miền Bắc Việt Nam – nhiều hơn 157 người so với những gì hồ sơ của Bộ Quốc phòng cho thấy là có thể.

Một tướng miền Bắc Việt Nam nếu báo cáo như vậy trước Bộ Chính trị sẽ khiến khán giả tự hỏi về đầu óc của ông ta. Một cơ quan tình báo cũng chỉ có thể sai sót ở một mức độ nào đó thôi. Vào thời điểm mà đất nước họ đang tham gia vào một chương trình viện trợ quân sự lớn cho Việt Nam, liệu các sĩ quan tình báo quân sự Liên Xô ở Hà Nội có thể không biết ai là Phó Tham mưu trưởng Việt Nam, hay có thể chấp nhận việc nhắc đến một Hội nghị chưa hề diễn ra, hoặc có thể công nhận sự tồn tại của Tướng Ngô Đình Dzu khi những hoạt động của hai Dzu thật đã được báo chí phương Tây đưa tin?

Một số thành viên của chính quyền Clinton đang lo ngại về một Trung Quốc hung hăng và thấy việc dàn xếp với Việt Nam là khôn ngoan. Huyền thoại POW/MIA và các nhóm vận động liên quan đã giữ họ trong tầm kiểm soát. Ngay cả trước khi xuất hiện tài liệu Liên Xô của Stephen Morris, một quan chức đã nói rằng phải “thúc đẩy” bình thường hóa với Việt Nam “một cách cẩn thận để tránh chọc vào tổ ong”. Có một yếu tố phức tạp khác: “Bill Clinton là Tổng thống Hoa Kỳ”, quan chức này nói. Là một trong nhiều mâu thuẫn của đời sống chính trị Mỹ, việc phản đối một cuộc chiến tồi tệ không mang lại cho một chính trị gia bất kỳ sự ghi nhận nào. Biết điều này, Bill Clinton đã giảm nhẹ sự phản đối của mình đối với Chiến tranh Việt Nam và việc tránh nghĩa vụ quân sự của ông khi còn trẻ. Giờ đây, khi ông đang xử lý vấn đề Việt Nam, quan chức này nói, “ông không thể để mình trông như một kẻ yếu”. Người Việt, những người hiểu văn hóa Mỹ hơn người Mỹ tưởng, biết rằng việc dỡ bỏ cấm vận sẽ dễ dàng hơn đối với một nhân vật cánh hữu như George Bush, người đã hoàn thành nghi thức Mỹ khi lao vào nguy hiểm với tư cách là phi công máy bay ném ngư lôi trong Thế chiến II.

Cách Tổng thống đón nhận những phát hiện của John Vessey dường như xác nhận cách hiểu của người Việt Nam. Tướng Vessey trở về từ Hà Nội để tuyên bố rằng, ngoại trừ một chi tiết nhỏ liên quan đến việc thả ba phi công vào năm 1972 trong một chiêu trò tuyên truyền, mọi thông tin trong tài liệu của Liên Xô liên quan đến POW đều sai. Nhưng khi ông Clinton được hỏi tại một cuộc họp báo vào ngày 23 tháng 4 về thái độ của ông đối với việc bình thường hóa và nới lỏng cấm vận, ông đã trả lời lấp lửng: “Tôi cần được thuyết phục rằng chúng ta đã tiến một chặng đường dài để giải quyết mọi trường hợp có thể giải quyết được tại thời điểm này”, Tổng thống nói “Và tôi thú thật rằng tôi bị ảnh hưởng rất nhiều bởi gia đình của những người đã mất ở đó, hoặc những người vẫn không biết sống chết ra sao, hơn là bởi lợi ích thương mại và những điều khác dường như rất thuyết phục trong thời điểm này”… Nếu chính sách của Mỹ đối với Việt Nam muốn phục vụ cho lợi ích của Mỹ, Bill Clinton và chính phủ Mỹ sẽ phải thoát khỏi những ảo tưởng cuối cùng về cuộc chiến.■

Neil Sheehan

Thanh Trà (dịch)

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN