Tạp chí Phương Đông trân trọng giới thiệu bài nghiên cứu về Ngọa Vân của Tiến sĩ Nguyễn Văn Anh, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Bài viết kỳ vọng mang đến cho độc giả những hiểu biết nền tảng về vai trò của Ngọa Vân trong lịch sử Phật giáo Trúc Lâm nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung.
Đức Vua Trần Nhân Tông, vị Vua thứ 3 của vương triều Trần, tên húy là Khâm, sinh ngày 11 tháng Mười Một (1258). Năm 16 tuổi (1274) ông được sắc phong làm Hoàng thái tử; năm 21 tuổi ông được Vua cha Trần Thánh Tông nhường ngôi, ở ngôi 14 năm (1278 – 1293). Năm 1293, ở tuổi 35, ông nhường ngôi cho con, lui về Thiên Trường làm Thái Thượng hoàng. Năm 1294, xuất gia tu tập tại hành cung Vũ Lâm. Năm 1299, chính thức xuất gia tu hành khổ hạnh tại đỉnh Tử Tiêu trên núi Yên Tử, lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà, xưng là Trúc Lâm Đại sĩ. Cuối đời ông tu và hóa tại am Ngọa Vân, được tôn xưng là Vua Phật, Trúc Lâm Đại Sĩ Điều Ngự Vương Phật, tổ thứ nhất của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Tư liệu thư tịch đều thống nhất cho biết, Trúc Lâm Đại Sĩ hóa tại am Ngọa Vân. Tuy nhiên am Ngọa Vân ở đâu lại là vấn đề chưa được giải quyết. Vấn đề vị trí của am Ngọa Vân đã được các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, khảo cổ chú tâm tìm hiểu từ cuối thập niên 60, đầu thập niên 70 của thế kỷ XX trong chương trình nghiên cứu văn minh Đại Việt thời Lý – Trần. Tuy nhiên, chưa có kết quả đáng kể nào được ghi nhận. Do đó, cho đến trước năm 2008, am Ngọa Vân ở đâu vẫn là một vấn đề còn bỏ ngỏ. Từ năm 2007, cơ may đến, chúng tôi được tiến hành điều tra, nghiên cứu hệ thống các di tích nhà Trần ở Đông Triều và đặt nó trong không gian văn hóa chung của vùng đất An Sinh xưa, vùng đất mà dưới thời Trần là ấp thang mộc của An Sinh vương Trần Liễu. Khi thực hiện chương trình này, chúng tôi đã đặc biệt chú tâm đến hệ thống di tích chùa, am, tháp của Thiền phái Trúc Lâm được xây dựng từ Đông Triều đến Uông Bí ngày nay, trong đó tìm hiểu và giải quyết vấn đề am Ngọa Vân được đặc biệt chú trọng.
Để tìm tìm hiểu vấn đề vị trí của Ngọa Vân, chúng tôi chú trọng đến hai nguồn tư liệu: (i) Tư liệu thư tịch có liên quan như: Đại Việt sử ký toàn thư (Toàn thư); Tam tổ thực lục (Tam tổ); Tam tổ hành trạng; Trần triều thánh tổ các xứ địa đồ (Trần triều); các sách địa chí và tư liệu văn bia… (ii) Tư liệu khảo cổ học. Các tư liệu khảo cổ học gồm tư liệu điều tra, khai quật khảo cổ học tại các di tích chùa tháp Trúc Lâm trong không gian văn hóa Yên Tử do các nhà nghiên cứu tiền bối, đồng nghiệp đã thực hiện và hơn hết là do chúng tôi trực tiếp điều tra, khai quật và khảo cứu. Trong đó, việc điều tra được chúng tôi thực hiện trên một khu vực rộng kéo dài từ Khu di tích danh thắng Yên Tử (Uông Bí, Quảng Ninh) ngày nay đến Côn Sơn (Hải Dương), tập trung chính vào khu vực vòng cung Đông Triều theo quan niệm của địa lý hiện đại thuộc địa phận Uông Bí, Đông Triều, Chí Linh. Kết quả nghiên cứu này đã được công bố một phần trong một số công trình: “Am Ngọa Vân qua các bằng chứng khảo cổ học” trên tạp chí Nghiên cứu Phật học số 2008; sách Am Ngọa Vân, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin năm 2013, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội tái bản năm 2015 và bài am Ngọa Vân, nơi Vua Trần Nhân Tông hóa Phật trên Tạp chí nghiên cứu lịch sử số 1 năm 2016.
Bài viết này ngoài việc hệ thống, tổng hợp các tư liệu đã công bố, chúng tôi tiếp tục cung cấp các nguồn tư liệu mới được phát hiện trong các cuộc khai quật tại các địa điểm: Ngọa Vân, Đá Chồng, Ba Bậc trong các năm 2017, 2018, trên cơ sở đó tiếp tục củng cố, mở rộng một số kết luận đã được đưa ra trước đây nhằm khẳng định và làm rõ vị trí địa lý; vai trò, vị thế của quần thể di tích Ngọa Vân trong lịch sử phát triển của Phật giáo Trúc Lâm nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung.
1. Ngọa Vân: nơi đức Vua Trần Nhân Tông tu hành và hóa Phật
“Tháng Tám năm 1299 từ phủ Thiên Trường Trần Nhân Tông xuất gia vào núi Yên Tử tu hành khổ hạnh”[1], “lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà, khi tu trên đỉnh Tử Tiêu (Vân Tiêu-TG) Ngài xưng là Trúc Lâm Đại Sĩ[2]. Sau thời gian tu hành khổ hạnh tại Hoa Yên – Tử Tiêu, ông xuống núi, đi khắp xóm làng, dạy dân chúng phá bỏ dâm từ và thực hành thập thiện, ban thuốc chữa bệnh. Tìm người nối dòng pháp, Ngài gặp được Pháp Loa. Năm Bính Ngọ, niên hiệu Hưng Long thứ 14 (1306), Ngài giao cho Pháp Loa làm chủ giảng tại chùa Siêu Loại và nhận Huyền Quang làm thị giả.
Sách Tam tổ chép: “Tháng Năm, năm Đinh Mùi, niên hiệu Hưng Long thứ 15 (1307) Điều Ngự lên tu tại một am trên ngọn Ngọa Vân (卧 雲 峯 – Ngọa Vân Phong)”[3]. Việc Trúc Lâm Điều Ngự lên tu ở Ngọa Vân vào năm 1307 ngoài ghi chép của Tam tổ hiện chưa thấy tài liệu nào nhắc tới việc này. Như vậy, đây là lần đầu tiên địa danh Ngọa Vân được nhắc tới trong hành trạng của Vua Trúc Lâm Điều Ngự, đồng thời qua đây cũng có thể suy đoán, ông bắt đầu tu tại Ngọa Vân từ tháng Năm năm Đinh Mùi (1307).
Cũng theo ghi chép này của Tam tổ thì, Ngọa Vân là tên một ngọn núi (卧 雲 峯 – Ngọa Vân Phong), am trên ngọn núi không được nhắc tên, nhưng chúng ta thấy tên am nơi Ngài tu sau này được gọi là am Ngọa Vân. Như vậy, đây là cách lấy tên ngọn núi để đặt tên cho am. Lấy tên núi đặt tên cho công trình hoặc lấy tên công trình đặt tên cho vùng đất là hiện tượng khá phổ biến trong cách đặt tên chùa, am của Thiền phái Trúc Lâm như: am Tử Tiêu được xây dựng trên ngọn Tử Tiêu, chùa Trù Phong (chùa Hồ Thiên) được xây dựng trên núi Trù Phong…
Ngày mồng một, tháng Mười một, lúc nửa đêm, sao trời tỏ rạng, Điều Ngự hỏi “Bây giờ là mấy giờ, Bảo Sát (Sái) đáp, giờ Tý, Điều Ngự nói, “Đây là lúc ta đi”, nói xong liền nằm theo thế sư tử, an nhiên viên tịch”. Bảo Sát hỏa thiêu Điều Ngự ngay tại am Ngọa Vân, Pháp Loa tới tưới nước thơm lên hỏa đàn thu ngọc cốt và xá lị. Vua Trần Anh Tông liền tôn hiệu là Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tịnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật[4], rước xá lị về tôn trí tại chùa Tư Phúc trong hoàng cung Thăng Long.
Về ngày hóa của Trúc Lâm Điều Ngự, các tài liệu có sự không đồng nhất. Toàn thư chép “Ngày mồng ba (tháng Mười một -1308), Thượng hoàng (Trần Nhân Tông – TG) băng ở am Ngọa Vân, núi Yên Tử, bấy giờ Thượng hoàng xuất gia ở ngọn Tử Phong núi Yên Tử”[5]; Tam tổ chép “Giờ Tý (tức từ 23 giờ đến 01 giờ) ngày mồng Một, tháng Mười một, đến đêm thứ 2 Bảo Sát phụng di chúc hỏa thiêu ngay nơi am ấy”[6]. Ngoài ghi chép của Toàn thư và Tam Tổ, trong bia Thanh Mai Viên Thông tháp bi là tấm bia ghi chép hành trạng của đệ nhị tổ Pháp Loa dựng năm Đại Trị thứ 5 (1362), cũng chép ngày hóa của Trúc Lâm Điều Ngự là ngày mồng Một tháng Mười một năm Mậu Thân (1308). Chúng tôi cho rằng ghi chép của bia Thanh Mai Viên thông tháp bi và Tam tổ là đáng tin cậy. Việc Toàn thư chép ngày kỵ của Trúc Lâm Điều chậm hơn 1 ngày so với sách Tam Tổ có thể là do tin tức được chuyển về kinh đô chậm nên có sự khác biệt như vậy.
Về tên hiệu, Trúc Lâm Điều Ngự có nhiều tên hiệu, cách gọi cũng có chút khác biệt. Hương Vân Đại Đầu Đà và Trúc Lâm Đại Sĩ là tên hiệu tự xưng của ông. Khi ông hóa, Vua Trần Anh Tông tôn xưng ông là Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tịnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật. Đệ tử và người đời sau thường gọi là: Trúc Lâm Đại Sĩ, Trúc Lâm Điều Ngự hoặc Trúc Lâm Điều Ngự Vương Phật; Phật Hoàng hay Sơ tổ…
Như vậy, qua tư liệu thư tịch có thể xác định, ít nhất từ tháng Năm năm 1307, Trúc Lâm Điều Ngự đã lên tu tại am Ngọa Vân trên ngọn Ngọa Vân. Ông “nhập niết bàn” tại Ngọa Vân vào ngày mồng Một, tháng Mười một năm Mậu Thân (1308), các đệ tử tổ chức hỏa thiêu rồi thu xá lỵ và ngọc cốt của ông ngay tại Ngọa Vân. Ngọa Vân là điểm kết thúc của hành trình tu luyện, nhập diệt theo thế sư tử nằm của Trúc Lâm Điều Ngự. Nhìn lại hành trình xuất gia, tu hành, đắc đạo, giảng pháp, độ tăng, giáo hóa chúng sinh của Trúc Lâm Điều Ngự ta thấy hành trình này mô phỏng hành trình xuất gia, tu hành, thành đạo và hóa Phật của Thích Ca Mâu Ni. Trong hành trình tu hành – thành Phật của Trúc Lâm Điều Ngự, Hoa Yên – Tử Tiêu là nơi Trúc Lâm Điều Ngự tu luyện, giảng pháp, độ tăng; Ngọa Vân là nơi nhập Niết Bàn, kết thúc trọn vẹn quá trình tu hành – thành Phật của Trúc Lâm Điều Ngự – Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Là nơi kết thúc hành trình tu hành – thành phật của sơ tổ Trúc Lâm, Ngọa Vân là thánh địa của Thiền phái Trúc Lâm.
2. Ngọa Vân am ở đâu?
Am Ngọa Vân ở đâu là vấn đề được thảo luận trong nhiều thập kỷ qua. Năm 2008, trong bài “Am Ngọa Vân qua bằng chứng khảo cổ học”[7], chúng tôi đã cung cấp những bằng chứng và bước đầu làm sáng tỏ vấn đề này[8]. Ở đây chúng tôi muốn cung cấp thêm thông tin, củng cố và làm rõ hơn kết luận đã nêu ra về vị trí của am Ngọa Vân.
Như trên đã trình bày, sách Toàn thư và nhiều tài liệu khác đều ghi am Ngọa Vân thuộc “núi Yên Tử” (Yên Tử Sơn (安 子 山)). Vậy Yên Tử trong khái niệm Yên Tử sơn của người xưa như thế nào là chìa khóa rất quan trọng, hay nói cách khác không gian của núi Yên Tử theo quan điểm của người xưa là như thế nào? từ đâu đến đâu và so sánh với địa lý, hành chính hiện đại thì nó thuộc phạm vi hành chính nào hiện nay? Qua các nguồn tư liệu khảo cổ học, tư liệu văn bia, chúng tôi cho rằng, khái niệm Yên Tử sơn (núi Yên Tử) cần phải hiểu theo cả hai khía cạnh: Địa lý tự nhiên và Địa lý nhân văn. Ở cả hai khía cạnh này, với tư liệu hiện có cho phép chúng ta hiểu núi Yên Tử là một khu vực rộng lớn tương ứng với một phần của vòng cung Đông Triều, chạy dài từ Uông Bí, qua Đông Triều đến Chí Linh. Núi Yên Tử bao gồm nhiều núi khác nhau: Tượng Sơn, Bảo Đài, Trù Phong, Thanh Mai… trên đó lại có thể có nhiều ngọn (đỉnh) núi như: Bạch Vân (Mây trắng); Trù Phong hay Vân Phong… với điểm cao nhất là ngọn Bạch Vân nơi có chùa Đồng (cao 1068m). Điều đó có nghĩa là Yên Tử theo cách hiểu hôm nay chỉ là một phần của không gian, địa lý Yên Tử sơn xưa. Vậy trong không gian rộng lớn đó, Ngọa Vân nằm ở đâu?
Về vị trí của Ngọa Vân, trước năm 2008, có hai quan điểm: i). Một số nhà nghiên cứu cho rằng, Ngọa Vân nằm trong quần thể Di tích và danh thắng Quốc gia Yên Tử ngày nay nhưng vị trí thì có đôi chút khác nhau, người cho rằng Ngọa Vân nằm ở Vườn Tháp Tổ; người cho rằng gần am Thiền Định, người cho rằng gần khu am Dược. Điểm chung của những người theo quan điểm này là, tất cả đều không đưa ra các bằng chứng cụ thể nào để minh chứng cho quan điểm của mình; ii). Nhóm thứ hai cho rằng am Ngọa Vân chính là chùa Ngọa Vân thuộc địa phận Đông Triều trong đó tiêu biểu là quan điểm của Nguyễn Huệ Chi. Năm 1990, Nguyễn Huệ Chi khảo sát hệ thống di tích liên quan đến vương triều Trần tại Đông Triều, nhờ người dân mách bảo, ông đã đến chùa Ngọa Vân. Tại vị trí am Ngọa Vân, ông đã tìm và ghép lại các mảnh của tấm bia Trùng tu Ngọa Vân được dựng năm Vĩnh Thịnh thứ 3 (1707). Nguyễn Huệ Chi có chút nhầm lẫn khi cho rằng vị trí Ngọa Vân tại thời điểm ấy thuộc địa phận của Bắc Giang. Thực tế, tại thời điểm năm 1990, am Ngọa Vân nơi ông khảo sát chính là am Ngọa Vân thuộc địa phận xã Bình Khê của huyện Đông Triều (nay là thị xã Đông Triều). Người dân Đông Triều, nhiều người đã từng biết đến Ngọa Vân, nhưng không phải ai cũng biết đó là nơi Vua Trần Nhân Tông đã tu hành và hóa Phật.
Tư liệu thư tịch và văn bia cho chúng ta những chỉ dấu hết sức quan trọng. Sách Tam tổ có đoạn “Ngày 18, đến chùa Tú Lâm, núi Kỳ Đặc ở Yên Sinh… Tỳ kheo Tử Doanh và Hoàng Trung đưa lên am Ngọa Vân”[9], ghi chép này cho thấy Ngọa Vân thuộc địa phận của An Sinh. Tài liệu văn bia và địa chí cũng cung cấp một số thông tin về mặt địa lý khu vực An Sinh, các thông tin này cung cấp hệ quy chiếu để từ đó xác định vị trí của Ngọa Vân. Bia Trần Triều bi ký dựng tại đền An Sinh (nay thuộc xã An Sinh, huyện Đông Triều), bia dựng năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), tấm bia này khắc lại nội dung văn bia được dựng năm Chính Hòa thứ 10 (1689) đời Vua Lê Hy Tông, bia có khắc một số sắc chỉ của các chúa Trịnh phong cho dân xã An Sinh là “dân hộ nhi”, giao cho dân xã An Sinh có trách nhiệm thờ phụng lăng tẩm và “năm vị Hoàng đế triều Trần tại điện An Sinh (nay là đền An Sinh) chùa Ngọa Vân và chùa Tư Phúc”, hàng năm được miễn các loại thuế phu dịch. Nội dung chỉ dụ này cũng được khắc lại trong tấm bia Trùng tu Ngọa Vân tự bi ký dựng năm Vĩnh Thịnh thứ 3 đời Lê Dụ Tông (1707), tấm bia này hiện còn tại am Ngọa Vân. Như vậy, các tư liệu nêu trên cho biết chùa Ngọa Vân dưới thời Lê Trung hưng thuộc xã An Sinh.
Sách Trần triều thánh tổ các xứ địa đồ, cuốn sách do Tiên chỉ xã Đốc Trại là Dương Văn Minh sao lại ngày 19 tháng 10 năm Bảo Đại thứ 17 (1944) có vẽ lược đồ giới hạn chùa Ngọa Vân cho biết chùa này thuộc xã Đốc Trại, tổng Mễ Sơn, huyện Đông Triều, phủ Kinh Môn.
Ngày 25 tháng Bảy năm Khải Định thứ 9 (1924), nhân dịp lễ mừng Vua Khải Định 40 tuổi, Vua Khải Định đã cấp sắc phong thần cho 8 vị Hoàng đế nhà Trần làm thành hoàng của xã Đốc Trại trong đó có 7 vị có bài vị thờ ở đình Đốc Trại. Thần tích của làng Đốc Trại cũng giải thích thêm: Vua Trần Nhân Tông không có bài vị đặt ở đình Đốc Trại, vì Vua đã được thờ ở chùa Ngọa Vân cũng thuộc bản xã (tức thuốc xã Đốc Trại)[10]. Theo thần tích xã An Sinh và thần tích xã Đốc Trại thì, lăng tẩm các Vua Trần và chùa Ngọa Vân vốn trước thuộc đất xã An Sinh, khi xã Đốc Trại được thành lập, chùa thuộc về xã Đốc Trại. Như vậy, đến đầu thế kỷ XX, xã An Sinh và xã Đốc Trại thuộc tổng Mễ Sơn, huyện Đông Triều. Xã Đốc Trại được thành lập trên phần đất lăng tẩm của các Vua Trần vốn thuộc xã An Sinh, khi thành lập xã Đốc Trại thì chùa Ngọa Vân năm trên địa giới của xã Đốc Trại[11].
Khảo cứu các tài liệu địa lý khác như: sách Các trấn tổng xã danh bị lãm; Đồng Khánh dư địa chí, Đông Triều huyện chí, Danh mục các làng xã Bắc Kỳ của Ngô Vi Liễn cho thấy, từ đầu thế kỷ XIX khu vực Thượng Yên Công và Nam Mẫu tức là khu di tích và danh thắng Yên Tử ngày nay vẫn thuộc địa giới huyện Đông Triều nhưng thuộc tổng Bí Giang; An Sinh, Đốc Trại thuộc tổng Mễ Sơn. Với cứ liệu này ta có thể xác định địa giới hành chính của An Sinh và sự biến đổi của nó từ thời Trần đến thời Nguyễn một cách tương đối chính xác. Nếu như dưới thời Trần, đất An Sinh bao gồm cả khu di tích danh thắng Yên Tử thì ít nhất đến thời Lê xã An Sinh chỉ còn tương đương với địa giới các xã Bình Khê, An Sinh, Tân Việt, Việt Dân, một phần của xã Tràng An huyện Đông Triều ngày nay. Dưới thời Lê, Ngọa Vân nằm trong địa giới xã An Sinh, điều ấy có nghĩa là Ngọa Vân không nằm trong khu Nam Mẫu, Thượng Yên Công, tức khu vực Yên Tử ngày nay. Do vậy, giả thuyết cho rằng Ngọa Vân nằm trong khu di tích danh thắng Yên Tử được loại trừ.
Như đã trình bày ở trên, xã Đốc Trại được thành lập vào đầu thế kỷ XX trên cơ sở tách ra từ xã An Sinh. Sau khi thành lập xã Đốc Trại thì chùa Ngọa Vân thuộc địa phận xã Đốc Trại. Xã Đốc Trại thời Nguyễn nay là các làng: Trại Lốc, Nghĩa Hưng, Bãi Dài xã An Sinh và một phần thôn Tây Sơn xã Bình Khê của thị xã Đông Triều. Như vậy, có thể khẳng định, am Ngọa Vân dưới thời Trần thuộc phạm vi vốn là ấp thang mộc của An Sinh vương Trần Liễu, từ thời Lê đến đầu thời Nguyễn thuộc xã An Sinh huyện Đông Triều phủ Kinh Môn, khi xã Đốc Trại được thành lập thì Ngọa Vân thuộc địa phận xã Đốc Trại tổng Mễ Sơn, phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương, nay thuộc địa bàn hai xã An Sinh và Bình Khê thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.
Trên núi Vây Rồng thuộc địa bàn các xã An Sinh, Bình Khê còn lại dấu vết nhiều am, tháp trong đó có một khu vực được gọi là chùa Ngọa Vân, đó có phải là nơi Trúc Lâm Điều Ngự tu hành và hóa Phật? Để trả lời câu hỏi này, năm 2007, Đông Triều đã tổ chức các cuộc điều tra khảo cổ học khu vực Ngọa Vân, Hồ Thiên. Từ 2007 đến nay, nhiều cuộc điều tra khai quật khảo cổ học đã được thực hiện trên khu vực vòng cung Đông Triều từ Chí Linh đến Uông Bí, xa hơn là đến Hoành Bồ (nay thuộc Hạ Long). Các cuộc điều tra, khai quật đã thu được nhiều tư liệu quan trọng liên quan đến hệ thống chùa tháp Trúc Lâm nhưng trong phạm vi bài này chúng tôi chưa có điều kiện giới thiệu toàn bộ những phát hiện, ở đây chúng tôi giới thiệu những tư liệu quan trọng làm sáng tỏ vấn đề vị trí của Ngọa Vân đã phát hiện được tại khu vực Ngọa Vân – Hồ Thiên thuộc địa bàn xã An Sinh, Bình Khê thị xã Đông Triều. Các bằng chứng tiêu biểu gồm:
– Dấu tích am Ngọa Vân: Am Ngọa Vân là kiến trúc được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ XX. Kiến trúc có mặt bằng hình chữ nhật, tường gạch, mái uốn vòm, hồi phía Nam mở 1 cửa, trên đề ba chữ Hán Ngọa Vân Am (卧 雲, tức là Am Ngọa Vân).
Các sách: Đại Nam Nhất thống chí; Đông Triều huyện chí; Đông Triều huyện phong thổ ký cho biết am Ngọa Vân thờ tượng Trần Nhân Tông nằm theo thế sư tử nằm. Đặc biệt, trong phần kê khai thần tích làng Đốc Trại do Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp tại Hà Nội tiến hành điều tra năm 1938, Lý trưởng làng Đốc Trại là Thang Thành Trương cho biết “Nhân Tông Hoàng đế thì ngài xuất gia đi tu đạo tại chùa Yên Tử, khi ngài về tới núi Ngọa Vân thuộc làng tôi thì Ngài hóa tại chốn Thạch Bàn (bàn đá). Đời trước đã làm chùa để thờ Ngài ở đây, nhưng sau giặc giã đốt phá, chùa bị đổ nát cả, chỉ còn một pho tượng đồng, đã bị cháy một đám ở chân… Pho tượng ấy tạc hình Ngài nằm ghé trên một tấm đá, tay phải chống lên má, tay trái cầm quyển sách, ở chỗ đùi có khóm trúc mọc, hiện nay vẫn thờ trong cái am nhỏ”[12].
Qua các tài liệu kể trên có thể thấy, am Ngọa Vân hiện nay là kiến trúc được xây lại sau khi kiến trúc trước đó đã bị sập đổ, trong am có thờ tượng Phật Hoàng nhập Niết bàn, bức tượng đó nay không còn, người ta đã làm pho tượng mới để thay thế pho tượng cũ đã mất.
– Tháp Phật Hoàng: Cũng tại đây, ngoài dấu tích am Ngọa Vân hiện còn lại hai tòa tháp bằng đá, tháp thứ nhất là Phật Hoàng tháp và tháp thứ hai là Đoan Nghiêm tháp. Phật Hoàng tháp có mặt bằng hình vuông, một bệ, hai tầng, tầng 1 giống như một khám thờ, mặt trước mở 1 cửa, trong lòng đặt bài vị bằng đá xanh, bài vị ghi: “南無苐一祖竹林頭陀浄慧覺皇陳朝苐三仁宗聖帝調御王佛”; (phiên âm) Nam mô đệ nhất tổ Trúc Lâm đầu đà Tĩnh tuệ giác hoàng Trần triều đệ tam Nhân Tông thánh đế Điều ngự vương Phật”, nghĩa là: Nam mô a di đà Phật. Bài vị thờ Điều ngự vương Phật Đầu đà Tĩnh tuệ giác hoàng, tổ thứ nhất phái Trúc Lâm, Vua thứ 3 triều Trần Hoàng đế Nhân Tông. Ngoài ra, trước mặt tháp còn có tấm bia đá dựng năm Minh Mệnh thứ 21, trên bia ghi: “明命弍拾壹年玖月初稑日奉陳朝仁宗皇帝陵勅造. (Phiên âm) Minh Mạng nhị thập nhất niên, cửu nguyệt, sơ lục nhật phụng, Trần triều Nhân Tông Hoàng đế lăng sắc tạo”. Nghĩa là: ngày mùng 6 tháng 9 năm Minh Mệnh thứ 21 (1840), phụng sắc tạo (bia) lăng hoàng đế Trần Nhân Tông”. Năm 1840, Vua Minh Mệnh đã có một sắc chỉ yêu cầu các địa phương có lăng tẩm của vua các triều trước phải dựng bia để ghi nhớ vị trí, đồng thời cấp đất và giao cho dân địa phương trông coi, thờ phụng. Lăng tẩm các Vua nhà Trần ở An Sinh đều được dựng bia. Tháp Phật Hoàng được cọi như là lăng tẩm của Vua Trần Nhân Tông nên đẫ được dựng bia và vẽ lại mặt bằng như lăng tẩm các hoàng đế nhà Trần khác ở An Sinh[13].
Sách Toàn thư và Tam tổ cho biết, sau khi Phật Hoàng Trần Nhân Tông hóa Phật, các đệ tử của ông cho hỏa thiêu ngay tại Ngọa Vân, một phần xá lị được giữ tại Ngọa Vân, số xá lỵ còn lại và ngọc cốt được rước xuống thuyền vua, đưa về kinh đô Thăng Long, sau đó ngọc cốt đưa về an trí tại lăng Quy Đức (còn gọi là Đức lăng) phủ Long Hưng, nay là thôn Tam Đường, xã Tiến Đức huyện Hưng Hà, Thái Bình; xá lị được đưa đi an trí ở nhiều nơi: tháp chùa Tư Phúc, tháp Báo Thiên (Thăng Long); bảo tháp ở lăng Quy Đức; tháp Phổ Minh (Nam Định); Huệ Quang tháp (tháp Tổ – Yên Tử) và tháp chùa Quỳnh Lâm (Quảng Ninh)[14].
Tại Ngọa Vân, Pháp Loa cho xây bảo tháp Phật Hoàng (Phật Hoàng tháp) lưu giữ một phần xá lị của Trúc Lâm Điều Ngự. Tuy nhiên, tháp Phật Hoàng do Pháp Loa xây dựng không còn, tòa tháp Phật Hoàng hiện còn là công trình được xây dựng vào đầu thế kỷ XVIII. Bia Trùng tu Ngọa Vân tự bi ký cho biết, nhờ sự phát tâm công đức của tín chủ Diệu Tín, một người dạy hát ở cung Thị Nội và bà Dương Thị Trinh, đệ nhất cung tần của cung Thị Nội, nhà sư trụ trì chùa Ngọa Vân khi đó là Thiền sư Đức Hưng, hiệu là Viên Minh đã cho trùng tu chùa Ngọa Vân. Bài vị đặt trong tháp Đoan Nghiên cho biết tháp Đoan Nghiêm chính là tháp mộ của Thiền sư Đức Hưng, so sánh về cấu trúc, hình dáng, đặc biệt là bài vị đặt trong hai tòa tháp cho thấy Đoan Nghiêm Tháp và Phật Hoàng tháp được xây dựng cùng thời với nhau. Từ đó có thể suy đoán rằng, có lẽ đến đầu thế kỷ XVIII tháp Phật Hoàng do tổ Pháp Loa xây dựng đã bị đổ nát nên Thiền sư Đức Hưng đã cho xây dựng lại Phật Hoàng tháp như hiện còn. Cuộc khai quật khảo cổ tại Am Ngọa vân năm 2017 mặc dù chưa tìm thấy dấu vết nền tháp nhưng chúng tôi đã phát hiện một hộp đồng được cho là hộ chứa xá lị. Hộp được phát hiện tại vị trí nằm ở cấp nền trên, thẳng trục với tháp Phật Hoàng ở phía trước, ở độ sâu 25cm-30cm so với mặt đất hiện tại, 599,6m so với mực nước biển, trong một hố đất có màu xám rộng 20cm-25cm, hố được đào sâu xuống lớp đá gốc khoảng 10-5cm, trong lòng hố đã tìm thấy hộp chữ nhật, nằm nghiêng, nắp hộp bị móp do chịu sự tác động của một lực khá lớn. Hộp gồm hai phần, thân và nắp, nắp được khớp kín với thân, kích thước (trên/dưới) của hộp: dài 80/83mm, cao 45/46mm, rộng 46/49mm. Toàn bộ mặt ngoài để trơn, không trang trí hoa văn, ở đáy và hai mặt hông còn thấy rõ vết vải và dây buộc hình chữ thập (十) cho thấy hộp vốn được bọc trong một túi vải, ngoài có dây buộc lại hình chữ thập. Kết quả phân tích thành phần chất liệu tạo hộp bằng phương pháp Huỳnh quang tia X cho biết hộp được làm bằng hợp kim chì, đồng và thiếc. Kết quả chụp X Quang bằng thiết bị chụp ảnh phóng xạ trong công nghiệp X-Ray–RF-300EGM cho thấy hình ảnh hộp có cấu tạo gồm 2 lớp, trong lòng hộp có một vật hình que và một vật hình tròn, vật hình tròn giống mặt của răng hàm. So sánh hình dáng và cấu trúc của hộp này có thể thấy nó giống với hình dáng của các hộp xá lị đã phát hiện trong các tháp Phật giáo ở Trung Hoa và Việt Nam. Tuy nhiên điểm khác biệt quan trọng nhất của di vật này so với các hộp xá lị đã được phát hiện là nó không có hoa văn trang trí. Với cấu trúc và vị trí cũng như diễn biến địa tầng nơi phát hiện được hộp kim loại, chúng tôi cho rằng hộp kim loại này là hộp xá lị và không loại trừ đây chính là hộp chứa xá lị của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Năm 2022, khi trùng tu tháp Phật Hoàng, trong lòng và đáy tháp không tìm thấy tro cốt hay hộp xá lị. Điều này cho thấy, khi trùng tu am Ngọa Vân, Thiền sư Đức Hưng đã không có đủ thông tin về vị trí của tháp Phật hoàng do Pháp Loa xây dựng trước đó, việc ông cho xây dựng tháp Phật Hoàng có lẽ chỉ mang tính biểu tượng.
Bên cạnh các di tích, di vật nêu trên, tại Ngọa Vân còn còn tìm thấy khá nhiều loại hình di vật có niên đại từ thời Trần cho đến thời Nguyễn. Đáng lưu ý, tại một số vị trí như chùa Ngọa Vân, am Ngọa Vân, Đô Kiệu còn tìm thấy những viên ngói mũi sen thời Lê Trung hưng có in nổi hai chữ Vân Phong (雲 峯). Như trên đã trình bày, Vân Phong là cách viết tắt/gọi tắt của Ngọa Vân Phong (卧 雲 峯) các chữ in trên các viên ngói tìm được tại đây chính là tên của ngọn núi nơi vua Trúc Lâm Điều Ngự dựng am và cũng là tên am nơi ông tuy luyện – am Ngọa Vân.
Một di vật đặc biệt quan trọng khác ở còn lại tại am Ngọa Vân là tấm bia Trùng tu Ngọa Vân tự bi ký (重修卧雲寺碑記). Bia này được ông Nguyễn Huệ Chi phát hiện vào những năm 1990, hiện được dựng ở phía trước am Sơn thần. Bia làm bằng đá xanh gồm 2 phần đế và thân, đế bia hình chữ nhật, cao 20cm, dài 129 cm, rộng 52cm; thân bia rộng 91cm, cao 125cm, diềm thân trang trí văn mây, trán bia hình bán nguyệt trang trí mặt nguyệt ở giữa, hai bên văn mây có hình rồng. Bia được dựng vào năm Vĩnh Thịnh thứ 3 (1707). Hai mặt trước, sau khắc bài minh:
Mặt trước (mặt chính) Trùng tu Ngọa Vân tự (重修卧雲寺碑記), nội dung bài văn ở mặt này có thể vắn tắt như sau: chùa Ngọa Vân trên núi Bảo Đài là nơi mà cách đây hơn 400 năm vua Trần Nhân Tông chọn nơi cảnh Phật cõi thiêng này để dựng am tu hành, trải qua thời gian bị quên lãng, nay nhà sư trụ trì chùa Ngọa Vân là Thiền sư Đức Hưng, tự là Viên Minh với sự phát tâm công đức của tín chủ Diệu Tín, một người dạy hát ở cung Thị Nội và bà Dương Thị Trinh, đệ nhất cung tần của cung Thị Nội đã trùng tu và xây dựng “gác chuông và tăng phòng, tổng cộng là 25 gian, làm hai tòa bảo điện, dựng một tấm bia đá, làm thêm Kim Am, Hương Vân am, Giải Thoát am, tất thảy đều kiên cố, thâm nghiêm”.
Mặt sau ghi họ tên, địa chỉ những người phát tâm công đức với tựa đề Công Đức Bi ký (功德碑記). Bên cạnh đó, đáng lưu ý ở mặt này còn khắc thêm Sắc chỉ của chúa Trịnh ban hành ngày 24 tháng Mười năm Chính Hòa thứ 10 (1689) chỉ thị cho dân xã An Sinh trông nom, thờ phụng lăng tẩm các vua Trần, chùa Ngọa Vân, chùa Tư Phúc, đồng thời cho dân xã An Sinh được hưởng chế độ dân hộ nhi, được miễn trừ sưu sai, tạp dịch.
Như vậy, nội dung của Văn bia không chỉ cho biết việc trùng tu chùa Ngọa Vân vào đầu thế kỷ 18 mà còn biết, chùa Ngọa Vân chính là nơi đức vua Trần Nhân Tông đã đến đây dựng am tu hành. Tính từ khi vua Trần Nhân Tông lên tu ở am Ngọa Vân (năm 1307) đến khi chùa được trùng tu (1707) đúng vừa tròn 400 năm. Hơn nữa, nội dung văn bia còn cho biết thêm chùa Ngọa Vân được xây dựng trên núi Bảo Đài.
Núi Bảo Đài không được nói đến trong hành trạng của Trúc Lâm Điều Ngự nhưng, trong di sản thơ ca của ông có bài Đăng Bảo Đài Sơn tức là Lên núi Bảo Đài:
“Lên núi Bảo Đài
Đất vắng đài thêm cổ,
Ngày qua xuân chưa nồng.
Gần xa mây núi ngất,
Nắng rợp ngõ hoa thông.
Muôn việc nước trôi nước,
Trăm năm lòng nhủ lòng.
Tựa lan, nâng sáo ngọc,
Đầy ngực ánh trăng trong”[15].
Rõ ràng, qua bia Trùng tu Ngọa Vân tự bi và bài thơ Lên núi Bảo Đài cho biết thêm, Ngọa Vân (卧 雲 峯 – Ngọa Vân Phong) là một đỉnh núi trên núi Bảo Đài. Đồng thời có thể suy đoán rằng núi Bảo Đài chính là núi Vây Rồng như cách gọi hiện nay.
Với các nguồn tư liệu khác nhau, đặc biệt các tư liệu khảo cổ học nêu trên đã cho phép khẳng định am Ngọa Vân được xây dựng trên đỉnh Ngọa Vân núi Bảo Đài trên dãy Yên Tử, thuộc địa bàn hai xã An Sinh và Bình Khê thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Điều này đã không chỉ phủ nhận quan điểm cho rằng Ngọa Vân là một am nhỏ nằm trong Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử thuộc địa bàn hai phương Phương Đông và Thượng Yên Công ngày nay mà còn cho thấy không gian rộng lớn của Yên Tử xưa. Việc phát hiện và khẳng định được vị trí của Ngọa Vân tại núi Bảo Đài thuộc địa phận Đông Triều đã đồng thời giải mã và kết nối được Hoa Yên với Thanh Mai, nơi đệ nhị tổ Pháp Loa tu hành và chọn lựa làm nơi an trí nhục thể của mình thành một khu vực khép kín từ Hoa Yên – Long Động (chùa Lân) qua Ngọa Vân, Thanh Mai đến Côn Sơn thành một không gian liền mạch của Trúc Lâm Yên Tử. Và đó cũng chính là núi Yên Tử theo quan niệm của Thiền phái Trúc Lâm.
3. Quy mô của Ngọa Vân
Lâu nay nhiều người cho rằng Ngọa Vân chỉ là một am nhỏ nơi Vua Trần Nhân Tông tu hành giai đoạn cuối đời, điều đó đúng nhưng chưa đủ. Bởi lẽ, có thể ban đầu, khi Trúc Lâm Điều Ngự lên Ngọa Vân để tu hành thì Ngọa Vân chỉ có là một am nhỏ, nhưng về sau nhiều công trình kiên cố có quy mô lớn được xây dựng, đặc biệt là sau khi Điều Ngự hóa Phật.
Phan Huy Chú trong sách Lịch triều hiến chương loại chí khi đánh giá về Vua Trần Anh Tông đã viết “Vua khéo nối nghiệp trước, thương dân, lập chích, đời được yên vui, chính trị tốt đẹp, chế độ rực rỡ, đáng khen. Nhưng Vua họp thầy tu ở núi Yên Tử, làm nhọc sức dân ở am Ngọa Vân”[16]. Qua đánh giá này có thể thấy, Ngọa Vân đã được triều đình mà trực tiếp là Vua Trần Anh Tông cho xây dựng rất lớn.
Các cuộc điều tra, nghiên cứu tại khu vực Ngọa Vân đã phát hiện được 15 điểm có dấu vết nền móng kiến trúc chùa, am, tháp có niên đại từ thời Trần đến đầu thế kỷ XX, các di tích này tập trung thành 4 khu gồm Ngọa Vân, Thông Đàn – Đô Kiệu, Đá Chồng và Ba Bậc, trong đó Ngọa Vân được xây dựng trên núi Bảo Đài là trung tâm.
Các cuộc điều tra, khai quật và nghiên cứu khảo cổ tại Ngọa Vân từ 2008 đến 2018 đã phát hiện và làm xuất lộ hàng loạt di tích di vật. Trong số 15 điểm điểm di tích có 12/15 điểm đã tìm thấy dấu tích của thời Trần; 15/15 điểm có dấu vết của thời Lê (chủ yếu là thời Lê Trung hưng) và 3/15 điểm có dấu vết của thời Nguyễn.
Kết quả thống kê trên chúng ta có thể thấy, các bằng chứng khảo cổ đã chứng minh và làm rõ rằng, từ thời Trần, Ngọa Vân đã là một quần thể kiến trúc lớn mà ít nhất cho đến nay đã xác định được 12 vị trí. Với các bằng chứng trên cho phép khẳng định rằng sau khi Phật Hoàng Trần Nhân Tông hóa Phật, Ngọa Vân đã được nhà Trần mà trực tiếp là Vua Trần Anh Tông cho mở mang xây dựng thành một quần thể chùa tháp rộng lớn trên khu vực núi Bảo Đài.
Với vai trò là thánh địa của Trúc Lâm Yên Tử, Ngọa Vân đã được xây dựng và mở rộng thành một quần thể chùa tháp, trở thành trung tâm mới của Phật giáo thời Trần. Cùng với sự phát triển và mở rộng Ngọa Vân, năm 1317 Pháp Loa cho xây dựng tự viện Quỳnh Lâm thành trung tâm đào tạo tăng tài lớn nhất của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, cùng với đó là hàng loạt các am, tháp và chùa lớn tại An Sinh như Hồ Thiên, Bác Mã, Trại Cắp… được xây dựng đã biến An Sinh (đến đời Trần Dụ Tông đổi thành Đông Triều) là “thủ đô” của Phật giáo Đại Việt thời Trần.
Thời Lê, đặc biệt là thời Lê Trung Hưng, Ngọa Vân được mở rộng, trong đó Khu Đá Chồng được mở rộng thành một quần thể hoàn chỉnh với một tổ hợp công trình Phật điện, tịnh thất, tháp, cảnh quan với hồ nước, sân vườn…
Thời Nguyễn, dấu vết còn lại tại 03/15 điểm cho thấy, dưới thời Nguyễn, ngoài một số công trình xây dựng dưới thời Lê Trung hưng, đặc biệt là tháp đá còn tồn tại, phần lớn các công trình kết cấu gỗ đã bị xuống cấp và sập đổ. Đến đầu thế kỷ XX, việc thờ tự đã được tập trung về vị trí chùa và am Ngọa Vân, các kiến trúc thờ tự được xây mới với tường xây bằng gạch, đá, mái lợp ngói. Tại Đá Chồng, Ba Bậc, Thông Đàn và Ngọa Vân, hầu hết các tháp đá được xây dựng dưới thời Lê Trung hưng vẫn còn tồn tại đến khoảng thập niên 70-80 của thế kỷ XX mới bị đổ sập do nạn đào phá tìm kiếm của cải. Như vậy, có thể nói đến thời Nguyễn, về cơ bản Ngọa Vân đã trở nên hoang phế. Việc trùng tu chỉ diễn ra ở khu vực chùa, am trong khu Ngọa Vân tức là khu Trung tâm của Ngọa Vân mà thôi. Việc xây dựng ở giai đoạn này diễn ra trên quy mô nhỏ, các công trình xây mới tại thời điểm đó thậm chí đã làm biến đổi chức năng của một số khu vực trong quần thể Ngọa Vân. Cụ thể, vị trí nơi Trúc Lâm Điều Ngự dựng am tu hành và hóa Phật được chuyển thành chùa Ngọa Vân; vị trí chùa Ngọa Vân xây dựng một kiến trúc nhỏ làm nơi thờ mẫu…
Nguồn tư liệu phong phú, tin cậy cho phép khẳng định chính xác am Ngọa Vân nơi Trúc Lâm Điều Ngự tu hành và hóa Phật thuộc địa bàn xã An Sinh, Bình Khê của thị xã Đông Triều. Am được dựng trên ngọn Ngọa Vân núi Bảo Đài thuộc núi Yên Tử. Ban đầu đây chỉ là một am nhỏ, sau khi Trúc Lâm Điều Ngự hóa Phật, Vua Trần Anh Tông và các đệ tử của Trúc Lâm Điều Ngự đã cho mở rộng Ngọa Vân thành một quần thể lớn. Đặc biệt, dưới thời Lê Trung hưng, khi Phật giáo Trúc Lâm được phục hưng, Ngọa Vân đã được trùng tu, tôn tạo và mở rộng với quy mô lớn hơn nhiều so với thời Trần.
Hành trình tu hành khổ hạnh, đắc đạo, thuyết pháp, độ tăng giáo hóa chúng sinh rồi an nhiên hóa Phật của Trần Nhân Tông là một chuỗi các sự kiện mô phỏng hành trình tu luyện, thành phật của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, trong hành trình đó Yên Tử là nơi Phật Hoàng tu hành, thuyết pháp, độ tăng và Ngọa Vân chính là điểm kết thúc trọn vẹn quá trình tu hành, thành Phật của Phật Hoàng Trần Nhân Tông, Tổ thứ nhất của Thiền phái Trúc Lâm. Nói cách khác Ngọa Vân chính là Thánh địa của Thiền phái Trúc Lâm nói riêng, Phật giáo Đại Việt thời Trần nói chung.■
TS. Nguyễn Văn Anh
Chú thích:
1. Đại Việt sử ký toàn thư (2006). Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.546
2. Tam tổ thực lục (1995). Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam,tr.19; tr.34.
3. Tam tổ thực lục. sđd, tr.40.
4. Tam tổ thực lục. sđd, tr.33-34.
5. Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, tr.570.
6. Tam tổ thực lục. sđd, tr.33.
7. Nguyễn Văn Anh (2008). Am Ngọa Vân qua bằng chứng khảo cổ học. T/c Nghiên cứu Phật học số 5/2008. tr28-35.
8. Tại Hội thảo “Đông Triều với lịch sử nhà Trần” do Ban quản lý các di tích trọng điểm tỉnh Quảng Ninh, UBND huyện Đông Triều tổ chức vào tháng 10/2008 tại Đông Triều. Chúng tôi đã trình bày về vấn đề này và nhận được sự chia sẻ của các đại biểu.
9. Tam tổ thực lục. sđd, tr.31.
10. Thần tích xã Đốc Trại, tổng Mễ Sơn, huyện Đông Triều. Hồ sơ số TT-TSFQ4018/IX, 18. Viện Thông tin KHXH.
11. Nguyễn Văn Anh (2011). Đền Thái, đình Đốc Trại và sự hình thành các Trại ở An Sinh. T/c Khảo cổ học, số 5/2011, tr.48-52.
12. Thần tích xã Đốc Trại, tổng Mễ Sơn, huyện Đông Triều. Tư liệu đã dẫn.
13. Nguyễn Văn Anh (2013). Nơi lưu giữ xá lị của Phật Hoàng Trần Nhân Tông. T/c Nghiên cứu Phật học số . tr12-13.
14. Xem thêm: Nguyễn Văn Anh (2019). Nơi lưu giữ Phật hoàng Trần Nhân Tông. In trong Trần Nhân Tông và Phật giáo Trúc Lâm đặc sắc tư tưởng, văn hóa. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.474-484.
15. Bản dịch của Ngô Tất Tố.
16. Phan Huy Chú (2006). Lịch triều hiến chương loại chí. Nxb Giáo Dục, Hà Nội, tr.233.