Thời kỳ tiền khởi nghĩa và Cách mạng Tháng Tám năm 1945 qua tài liệu của Pháp

Giai đoạn 1939 – 1945 là bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam khi chuyển từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh vũ trang với cao trào Cách mạng tháng Tám, mở đường cho nền độc lập dân tộc. Tạp chí Phương Đông giới thiệu bản dịch Chương 2, mục A phân tích về thời kỳ này trong cuốn “Đảng Cộng sản Việt Nam: Đóng góp vào nghiên cứu về phong trào cộng sản ở Việt Nam” của tác giả Pierre Rousset xuất bản năm 1973.

Tái vũ trang (1939 – 1954). Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất

Toàn bộ thời kỳ đang mở ra từ đây trở đi, vấn đề làm thế nào để giành được chính quyền và đấu tranh vũ trang sẽ là mối quan tâm chính của Đảng Cộng sản Đông Dương. Kinh nghiệm đầu tiên của Đảng về lĩnh vực này là từ năm 1930: thời Xô Viết Nghệ -Tĩnh, các nhóm tự vệ, phôi thai của lực lượng vũ trang cách mạng đã ra đời. Nhưng về cơ bản, khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đảng mới bắt đầu thực sự xem xét vấn đề.

1. Thành lập Việt Minh

Ông Giáp viết: “Ngay từ năm 1930, bằng cách nêu bật hai mâu thuẫn trong xã hội chúng ta, Đảng ta đã xác định rõ ràng hai nhiệm vụ của cách mạng và đã tạo động lực cho cách mạng cả về chiều sâu lẫn chiều rộng. Nhưng phải đến những năm 1939-1941, cuộc đấu tranh chống đế quốc giải phóng dân tộc mới được nhìn nhận rõ ràng là nhiệm vụ hàng đầu[1]”.

Trên thực tế, chính trong ba năm này, Đảng Cộng sản Đông Dương đã đạt tới một sự thay đổi về phương hướng dẫn đến cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945. Bước ngoặt này dường như bắt đầu vào ngày 29/9/1939: trong một thông cáo báo chí gửi tới các cơ quan đảng ủy, Ban Chấp hành Trung ương đã nhấn mạnh rằng tình hình ở Đông Dương sẽ dẫn đến nhu cầu giải phóng dân tộc. Các nghị quyết của ba Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần VI, VII và VIII – mỗi kỳ tổ chức cách nhau một năm, đã minh họa rõ giai đoạn của bước ngoặt này. Cuối năm 1939, hai tháng sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Hội nghị Trung ương VI được tổ chức dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, và đặc biệt có sự hiện diện của các ông Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu và Võ Văn Tần. Các quyết định chính có thể được tóm tắt như sau:

a. Chính thức đưa khẩu hiệu “Giải phóng dân tộc” từng bị bãi bỏ trong năm 1936-1939 quay trở lại. Nó thậm chí trở thành mục tiêu chính của cuộc đấu tranh: Tình hình đã tiến triển. Chủ nghĩa đế quốc Pháp là thủ phạm gây ra chiến tranh đế quốc thế giới. Ách thống trị đè nặng lên các thuộc địa như Đông Dương, rõ ràng chế độ phát xít quân sự cùng việc bọn thực dân tìm cách thỏa hiệp với người Nhật, đã đẩy các dân tộc Đông Dương vào tình thế sống còn. Để cứu lấy mình, nhân dân Đông Dương không có con đường nào khác ngoài việc đấu tranh đánh đổ đế quốc Pháp, chống lại mọi sự xâm lược của ngoại bang, dù đến từ bọn Bạch vệ hay bất cứ lực lượng nào, nhằm giải phóng, giành độc lập[2].

b. Nhấn mạnh sự cần thiết và chuẩn bị sẵn sàng cho bạo lực cách mạng. Chúng ta phải “chuẩn bị các điều kiện cho hành động bạo lực, làm cách mạng giải phóng dân tộc[3]”. Quan điểm Mặt trận Dân chủ bị từ bỏ để ủng hộ lời kêu gọi thành lập Mặt trận dân tộc Thống nhất Phản đế Đông Dương.

c. Hội nghị một lần nữa từ chối đưa ra khẩu hiệu cải cách ruộng đất triệt để như trong chương trình 1930, thay thế bằng khẩu hiệu tịch thu đất đai của đế quốc Pháp và địa chủ phản bội dân tộc, với hy vọng giúp phân biệt các địa chủ và vô hiệu hóa hay tập hợp một số người trong số đó.

d. Khẩu hiệu thành lập các Xô-viết công nông đề ra từ năm 1930 cũng được thay thế bằng khẩu hiệu thành lập Chính phủ liên bang các nước Cộng hòa Dân chủ Đông Dương[4].

Ngay sau đó, tình hình thay đổi nhanh chóng. Ngày 22/9/1940, Nhật tấn công Đông Dương. Chính quyền thuộc địa Vichy của Pháp nhanh chóng đồng ý chào đón quân đội Nhật Bản đang tận dụng Chiến tranh Thế giới thứ 2 và nhân danh “Đại Á” để cố gắng hình thành một đế chế thuộc địa. Ngày 27/9/1940, cuộc khởi nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo nổ ra ở Bắc Sơn (Bắc Bắc Kỳ) nhân lúc quân Pháp thất trận trước quân Nhật. Nhưng tình hình vẫn chưa chín muồi. Khởi nghĩa Bắc Sơn thất bại. Tuy nhiên, tác động của nó trên toàn quốc vô cùng đáng kể: khởi nghĩa “mở ra một thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam, thời kỳ kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và khởi nghĩa vũ trang để giành chính quyền[5]”.

Áp phích tuyên truyền với hình ảnh Nhật đánh chiếm Đông Dương do nhà in La Typo Litho & J. Carbonel, Alger ấn hành khoảng năm 1940. Nguồn: Sách Ho Chi Minh: de l’Indochine au Vietnam xuất bản năm 1990

Tháng 11/1940, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương VII được tổ chức tại làng Đình Bảng (huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Các ông Nguyễn Văn Cừ, Lê Hồng Phong, Lê Duẩn và những người khác bị bắt. Các ông Phan Đăng Lưu (đại diện Nam Bộ), Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Trần Đăng Ninh gặp nhau ở hội nghị. Ngoài việc khẳng định phương hướng mới đã được quyết định từ một năm trước, Hội nghị lần này còn đưa ra các quyết định sau:

a. Trong tình hình mới, chuyển quan điểm từ Mặt trận dân tộc phản đế sang Mặt trận Dân tộc Thống nhất chống phe phát xít Nhật và Pháp ở Đông Dương.

b. “Đặt vấn đề khởi nghĩa vũ trang vào chương trình nghị sự của cách mạng Đông Dương[6]”. Nghiên cứu đặc điểm của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Đảng lần đầu tiên đưa ra triển vọng thực hiện các cuộc khởi nghĩa ở địa phương ngay khi có đủ điều kiện để hướng tới một cuộc tổng khởi nghĩa thành công và giành chính quyền trên toàn quốc. Trước mắt có quyết định thành lập căn cứ du kích ở vùng Bắc Sơn – Võ Nhai, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Chấp hành Trung ương (đặc biệt do Hoàng Văn Thụ phụ trách).

Ở miền Nam, Đảng Cộng sản cũng chuẩn bị một cuộc nổi dậy tại Sài Gòn. Ban Chấp hành Trung ương ra chỉ thị dừng toàn bộ công tác chuẩn bị, nhưng Phan Đăng Lưu đến quá muộn nên không kịp ngăn chặn phong trào. Cuộc khởi nghĩa nổ ra ngày 23/11/1940. Cuộc đấu tranh diễn ra trong vòng một tháng, nhưng, cũng thất bại: cả miền Trung và miền Bắc Việt Nam đều không thể hỗ trợ cho miền Nam. Nếu như thất bại của khởi nghĩa Bắc Sơn không để lại hậu quả quá nghiêm trọng – và còn cho phép tổ chức các trung tâm du kích đầu tiên – thì khởi nghĩa ở Sài Gòn đã giáng một đòn nặng nề vào các tổ chức cộng sản tại Nam Bộ. Sự đàn áp diễn ra khốc liệt và phải gần đến năm 1945, Đảng Cộng sản mới phục hồi hoàn toàn.

Nhân dân Nam bộ trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ chống Pháp cuối năm 1940. Ảnh tư liệu

Kết thúc giai đoạn này, ngày 19/1/1941, một cuộc binh biến của dân vệ bùng nổ tại Chợ Rạng và Đô Lương (tỉnh Vinh, diễn ra độc lập với Đảng Cộng sản Đông Dương, tổ chức này chỉ hỗ trợ sau khi bùng phát). Cuộc binh biến này do Chỉ huy đội Cung lãnh đạo và nhanh chóng bị đàn áp.

Bắc Sơn, Sài Gòn, Đô Lương: Cách mạng Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến có quy mô và mang tính liên tục đầu tiên

Ngày 8/2/1941, Hồ Chí Minh từ nước ngoài trở về và đặt trụ sở tại Cao Bằng, phía Bắc Bắc Bộ. Ở đây, trong vùng núi gần Trung Quốc và giữa các dân tộc thiểu số, ông đã tạo lập căn cứ kháng chiến đầu tiên. Tuy nhiên đây vẫn là căn cứ bí mật, chưa thật sự là vùng được giải phóng.

Từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương VIII diễn ra dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngoài ra còn có các đồng chí Hoàng Văn Thụ, Phùng Chí Kiên, Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Hồng Văn Hoàn, Vũ Anh. Một lần nữa, Hội nghị đã thông qua các công việc như hai lần Hội nghị trước đó. Nhưng trước tiên, Hội nghị phân tích diễn biến chiến tranh thế giới và kêu gọi thành lập hội Việt Minh. Trên thực tế, Hội nghị đã hoàn thành việc xây dựng đường hướng mới được đề ra tại Hội nghị VI và VII. Tầm quan trọng của nó được nhấn mạnh qua lời kêu gọi của ông Hồ Chí Minh gửi đến “toàn thể người dân Việt Nam” để kêu gọi kháng chiến.

a. Về phân tích tình hình quốc tế, các bài viết phía Việt Nam nhấn mạnh rằng, trong khoảng thời gian họp Ban Chấp hành Trung ương này và theo ông Hoàng Quốc Việt, từ tháng 5/1940[7], ông Hồ Chí Minh đã lường trước sự rạn nứt của Hiệp ước Đức-Xô và việc quân Đức tiến vào Liên Xô. Nếu điều này là sự thật thì đáng chú ý hơn là những người đứng đầu Quốc tế Cộng sản và trong mọi trường hợp là Stalin – thậm chí đã không tin điều đó cho đến phút cuối cùng, bất chấp các báo cáo từ mạng lưới tình báo của “Dàn nhạc Đỏ” tại châu Âu và Sorge tại Nhật Bản.

b. Những điều kiện khách quan và chủ quan cần thiết cho sự thắng lợi của cuộc khởi nghĩa được nghiên cứu một cách hệ thống để xác định thời điểm thuận lợi nhất cho cuộc khởi nghĩa bùng nổ. Bằng cách này, Hội nghị VIII đã cố gắng làm sáng tỏ và cụ thể hóa những bài học về các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và Sài Gòn rút ra từ Hội nghị VII.

c. Hội nghị tập trung vào mối nguy hiểm do sự phát triển không đồng đều của phong trào kháng chiến ở Đông Dương. Việc phong trào thành thị chậm trễ hơn ở nông thôn đã dẫn đến sự yếu kém về số lượng của các thành phần vô sản trong đảng. Tình hình này càng nghiêm trọng hơn so với trước đây khi họ “thiếu hụt đường lối trầm trọng”. Chúng ta thấy ở đây mối bận tâm thường xuyên của Đảng Cộng sản trong việc duy trì công việc ở thành thị và tìm thêm những người vô sản có hiệu quả bất chấp sự nổi dậy của các cuộc đấu tranh vũ trang, hậu quả là vùng trọng tâm hoạt động chuyển về miền núi và nông thôn.

Các văn bản của Hội nghị nhấn mạnh rằng: “Chúng ta phải đảm bảo rằng trong Cách mạng Đông Dương, phong trào công nhân ở các thành phố có sự phát triển vượt bậc và tạo thành đội tiên phong cho các phong trào khác. […] [Cần phải] coi việc khích lệ trong công nhân là công việc thiết yếu để tổ chức quần chúng[8]”.

d. Nhưng có lẽ quyết định chính của hội nghị này là việc thành lập Việt Minh. Trên thực tế, quyết định này dường như đánh dấu đỉnh cao của tiến triển chính trị bắt đầu vào năm 1939 và tượng trưng cho một sự tách rời nhất định với chiến lược của Quốc tế Cộng sản. 

Ban Tuyên truyền Đảng khi ấy viết, “Về vấn đề dân tộc, đảng của chúng tôi trước tiên muốn đặt mặt trận trong khuôn khổ toàn bộ Đông Dương. Ban Tuyên truyền giới hạn rõ ràng trong Hội nghị này ở mỗi nước Việt Nam, Campuchia và Lào, xác định rằng muốn giành thắng lợi thì cách mạng giải phóng dân tộc của ba nước phải tương trợ lẫn nhau, phối hợp chặt chẽ với nhau, tạo động lực cho nhau và cùng nhau phát triển[9]”. Cho đến lúc đó, tất cả các mặt trận thành lập liên tiếp đều được gọi là “Đông Dương”. Hôm nay lần đầu tiên được gộp thành hội Việt Nam Độc lập Đồng Minh với biểu tượng là lá cờ đỏ có ngôi sao vàng[10]. Đây sẽ là tổ chức đầu tiên của cuộc đấu tranh ở Việt Nam.

Sử gia Jean Chesneaux[11] cũng phân tích sự thành lập của Việt Minh. Chủ nghĩa cộng sản Việt Nam đã cân nhắc một thời gian dài giữa lựa chọn “Đông Dương” và lựa chọn “Việt Nam”. Lựa chọn Đông Dương là một phần của chiến lược được xác định theo cấu trúc thuộc địa của Pháp, ưu tiên bởi Quốc tế Cộng sản – tổ chức đóng vai trò vượt trội trong suốt thời kỳ 1930-1941.

Việt Minh thành lập sẽ đánh dấu việc quay lại lựa chọn “Việt Nam” vốn đã thịnh hành trong thời kỳ thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh Niên. Lựa chọn này dựa theo chiến lược về mối quan hệ chặt chẽ giữa cuộc đấu tranh của chủ nghĩa xã hội và cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam. Việc ngắt quãng này tương ứng với sự suy yếu mối liên hệ giữa Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Cộng sản Pháp và Moskva, khi Chiến tranh Thế giới thứ 2 nổ ra[12]. Do đó Chesneaux nhận định tính chất dân tộc của chủ nghĩa xã hội Việt Nam là tính chất được tiếp thu, là kết quả của một trải nghiệm chính trị phức tạp.

Kết thúc Hội nghị, Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản và Ban Thường vụ gồm Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt. Vào thời điểm này, ông Giáp và ông Phạm Văn Đồng đang công tác tại Trung Quốc, không tham dự Hội nghị. Họ quay trở lại Việt Nam không lâu sau đó.

Những năm đầu của cuộc Chiến tranh Thế giới lần 2 đánh dấu bằng ba hiện tượng quan trọng và tích cực. Khẩu hiệu Độc lập dân tộc một lần nữa được đưa ra. Tương tự, vấn đề khởi nghĩa và đấu tranh vũ trang đã được giải quyết trong thực tế. Cuối cùng, chính sách của Đảng Cộng sản Đông Dương từ cuối năm 1939 đến cuối năm 1941 thể hiện tính liên tục nhất định. Các chính sách này, khởi xướng từ trước các cuộc xâm lược của Đức vào Pháp, không cáo buộc tác động trực tiếp của những bước ngoặt trong định hướng của Quốc tế Cộng sản như chính sách Đảng Cộng sản Pháp nêu ra. Các chính sách vẫn tiếp tục trong khi Pháp dưới quyền Vichy – cũng như Đông Dương thuộc Pháp, cho tới cuối cùng khi Hiệp ước Xô – Đức được ký kết và Đảng Cộng sản Pháp tìm kiếm sự hợp thức hóa từ chính quyền mới. Các chính sách không thay đổi ngay cả khi quân đội Đức tiến vào Liên Xô và khi phong trào cộng sản quốc tế xuất hiện ở phe dân chủ.

Chắc chắn rằng, cho tới năm 1944, các tổ chức tuyên truyền của Việt Minh chủ trương chống phát xít, chống Nhật và chính quyền Vichy. Việt Minh liên lạc với các tổ chức Gaullist. Năm 1945, họ giúp đỡ quân đội Pháp gặp khó khăn khi đối đầu với quân Nhật. Nhưng họ không bao giờ từ bỏ các mục tiêu của mình và sẽ không phụ thuộc chính sách của mình vào liên minh với nước Pháp “dân chủ”. Đảng Cộng sản Đông Dương minh họa ở đây sự độc lập tăng cao của họ bằng các báo cáo với Quốc tế Cộng sản, dù tính lý thuyết vẫn còn yếu.

Nhưng tất cả những điều này vẫn không giải quyết được vấn đề tương lai của Đảng. Đảng Cộng sản Đông Dương liệu có thoái hóa thành một tổ chức dân tộc chủ nghĩa cách mạng giống như nhiều tổ chức do cách mạng thuộc địa lãnh đạo không? Đấu tranh vũ trang có thể là tiêu chí sai lầm về bản chất chủ nghĩa Mác-Lênin của một đảng. Đảng Cộng sản Venezuela đã có thể lãnh đạo cuộc đấu tranh vũ trang, nhưng như một phương tiện để gây áp lực bầu cử. Đảng Dân chủ Palestine cũng vậy, không thể vượt qua khuôn khổ tiểu tư sản về tư tưởng dân tộc. Tuy nhiên, về vấn đề liên minh giai cấp, tình trạng nhầm lẫn vẫn tiếp tục ngự trị. Việc áp dụng chương trình năm 1930 liên quan đến vấn đề nông dân một lần nữa bị trì hoãn vì “cải cách nông nghiệp linh hoạt”. Cụ thể là: giảm tô và lãi suất cho vay, tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ đã sang phe Pháp, chỉ phân chia lại những ruộng đất này cho nông dân. Ngay cả trong thời kỳ cách mạng dân chủ tư sản, địa chủ – với tư cách là một giai cấp – vẫn chưa bị coi là đối tượng cần đấu tranh trực tiếp.

Tới năm 1945, phong trào phát triển chậm – rõ ràng bị kìm lại vì những người cộng sản Việt Nam đánh giá thấp vấn đề nông dân. Ngô Văn Chiêu, tín đồ Công giáo và là một lãnh đạo cấp trung của Việt Minh không gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, miêu tả không khí của thời gian đó như sau: “Dần dần, một cuộc khởi nghĩa chống Nhật đang nhen nhóm trong quần chúng. Phải nói rằng nó chưa bao giờ mạnh mẽ hay kiên định (trừ với những người cộng sản). Năm 1941, một vài phong trào cực tả, vốn bắt đầu từ năm 1940 và liên kết với một số người Pháp chống phát xít, đã lan rộng. Ông Hồ Chí Minh thành lập Đảng độc lập, tiếp đó là Mặt trận dân tộc. Ở miền Bắc, vào năm 1944, các đội du kích Việt Nam được thành lập, chỉ huy bởi ông Văn (được biết đến nhiều hơn dưới tên Giáp). Ở Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng, Vinh, cuộc sống vẫn tiếp diễn[13]”.

Trong suốt thời kỳ này, các lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương sống cuộc sống bí mật khó khăn, bị truy nã vì quân đội Pháp nhận ra phong trào đang phát triển và tổ chức các cuộc càn quét mạnh mẽ. Rất nhiều lãnh đạo đã hy sinh khi đang thành lập và vận động cho sức ảnh hưởng của Việt Minh tại địa bàn mới như Phùng Chí Kiên, Lương Văn Tri, Hoàng Văn Thụ. Ngay một ngày sau Hội nghị Ban Chấp hành (BCH) Trung ương lần thứ 8, 2 căn cứ du kích đi vào hoạt động: một ở Cao Bằng (lãnh đạo bởi ông Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan và Vũ Anh) và một ở Bắc Sơn – Võ Nhai, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của BCH Trung ương, cùng với những người đứng đầu “đội cứu quốc” Phùng Chí Kiên, Lương Văn Tri, Chu Văn Tấn. Nhưng, trước sự đàn áp của quân Pháp, phần lớn lực lượng vũ trang ở Bắc Sơn đã rút về gần biên giới, tiếp đó, sau 8 tháng chiến đấu du kích, “đội cứu quốc” cũng rút lui khỏi Võ Nhai. Chỉ còn các nhóm vũ trang tồn tại trong khu vực này nhằm duy trì và phát triển nền tảng quần chúng của Việt Minh. Trái lại, tình hình ở khu vực Cao Bắc Lạng (các thành phố Cao Bằng – Bắc Kạn – Lạng Sơn) có vẻ khả quan hơn, đây là nơi phong trào phát triển vào năm 1942 – 1943.

Quân Nhật tại Sài Gòn tháng 2/1942. Ảnh: Pictures from History

Việt Minh giành lại thế chủ động vào năm 1943, Vào tháng 1, một hội nghị các lãnh đạo căn cứ Cao Bằng và Bắc Sơn – Võ Nhai được tổ chức. Hội nghị quyết định kết nối 2 căn cứ với vùng đồng bằng sông Hồng và khu vực Hà Nội để mở rộng phong trào và tăng cường liên lạc với BCH Trung ương. Kết quả là phân đội đã rời khỏi căn cứ Bắc Sơn – Võ Nhai quay lại căn cứ này. Từ đó, các phân đội sẽ tỏa ra tạo thành một “hành lang chính trị” giữa Bắc Sơn và Cao Bằng để tạo điều kiện hình thành “vùng tự do” thật sự bằng một cuộc “hành quân về phía Bắc”. Cùng lúc thực hiện “cuộc hành quân về phía Bắc” do Chu Văn Tấn lãnh đạo, một cuộc “hành quân về phía Nam” do Võ Nguyên Giáp lãnh đạo cũng khởi hành từ Cao Bằng. Hai cánh quân sẽ gặp nhau tại Bắc Kạn. Nhưng lo ngại về ảnh hưởng ngày một tăng của Việt Minh, quân Pháp đã tung ra các cuộc khủng bố trắng. Năm 1944 là một năm bản lề. Một văn bản ông Giáp viết, xuất bản tại Việt Nam năm 1947 dưới dạng bản in nhỏ nhưng không được dịch sang tiếng Pháp, miêu tả rõ những khó khăn trong việc xác định nhịp độ phát triển của các hành động quân sự và thời điểm nổi dậy thích hợp mà các lãnh đạo trải qua. Nhà báo Burchett đã đưa các đoạn trích của cuốn sách này trong tác phẩm của mình “Tại sao Việt Nam chiến thắng?”. Ông Giáp thừa nhận có hai lần lệnh nổi dậy được đưa ra quá sớm và ở lần thứ 2, chính ông Hồ Chí Minh ra lệnh hủy bỏ ngay lúc quay trở về sau khi bị giam hai năm tại nhà tù Trung Quốc. Trên hết, những đoạn văn này cho thấy tầm quan trọng của “tuyên truyền vũ trang” trong chiến lược phát triển của chiến tranh cách mạng, nó đáp ứng tình hình khi tình trạng đàn áp không cho phát triển hành động chính trị đơn thuần nhưng cán cân quyền lực vẫn ngăn các chiến sĩ cách mạng thật sự tham gia vào các cuộc đấu tranh vũ trang. Cuối cùng, văn bản này minh họa một cách hoàn hảo cho mức độ thành lập và tổ chức mà Việt Minh đạt được trong chưa đầy một năm trước khi nắm quyền.

“Khủng bố trắng bắt đầu vào năm 1943. Sau đó, vào năm 1944, tình hình trở nên căng thẳng […]

Vì chính sách khủng bố bạo lực của địch nên thời gian đầu, ở một số địa phương, các tổ chức gần như bị giải thể. Các lực lượng cách mạng ngày càng bị truy đuổi ráo riết. Họ phải chạy trốn trong bí mật. Các tổ chức bí mật dần được thành lập ở khắp các địa phương. Các nhóm này sẽ dần dần bắt đầu chiến tranh du kích và tiến hành quân sự hóa. Đây là những hạt giống tương lai của quân đội vũ trang.

Tuy nhiên, trong các tình huống khẩn cấp, cần phải tự vệ thật tốt. Và chính quyền cấp trên [đảng bí mật] không cho phép sử dụng vũ khí chống lại kẻ thù. Tiếng súng cách mạng vẫn chưa nổ ra. Từ tháng 1 năm 1942, các điều kiện cho cuộc đấu tranh vũ trang tiến triển tốt hơn, và Ủy ban liên tỉnh Cao Bắc Lạng công khai quyết định về hành động quân sự.

Quyết định hành động vũ trang này là một bước tiến lớn trên con đường đấu tranh, nhưng đây là một sai lầm lớn […] Có một lỗi sai nghiêm trọng trong quyết định này – nó quy định hành động vũ trang cần diễn ra trong các khu vực chưa có cơ sở quần chúng, như cách để tránh sự trả thù của đế quốc.

Quyết định được đưa ra vào tháng 1 [1944], nhưng tới tận tháng 8 vẫn không có hiệu quả, trừ một vài vụ hành quyết không đáng kể. […] những trải nghiệm đáng tiếc là bài học cho phong trào Cao Bắc Lạng trong tương lai và là bài học cho chúng ta ngày nay.

6 tháng sau, tình hình thay đổi nhanh chóng. Khủng bố trắng đã đạt đến mức cao nhất. Quần chúng nhân dân nóng lòng chờ đợi những phát súng của cách mạng. Đồng thời, các chiến thắng của quân Đồng minh ở Thái Bình Dương và Tây Âu càng thổi bùng lên phong trào dân chủ.

Sau khi phân tích và rút ra các kết luận từ tình hình, hội nghị các lãnh đạo liên tỉnh Cao Bắc Lạng họp tháng 7 đã nhất trí phát động lệnh khởi nghĩa.

Sau 2 tháng chuẩn bị, cần phát động chiến tranh du kích ở khắp các tỉnh.

Hi vọng! Xúc động! Vui sướng!

Nhưng không một nhà lãnh đạo nào nhận ra sai sót trong quyết định khởi nghĩa!

Về mặt chính trị, quyết định này chưa chín chắn, sai lầm, vì các địa phương trong cả nước chưa sẵn sàng hỗ trợ cho khởi nghĩa của quân Cao Bắc Lạng. Một cuộc nổi dậy đơn lẻ có thể bị đè bẹp khi địch tập trung tấn công.

Về mặt quân sự, quyết định khởi nghĩa không tuân theo quy tắc tập trung lực lượng. Các chỉ huy, vũ khí được chia cho các vùng du kích. Hoàn toàn thiếu một đội quân chính quy được trang bị vũ khí tốt hơn và các lãnh đạo riêng.

Đó là lý do cho việc vào tháng 10 năm 1944, Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về từ nước ngoài sau một thời gian dài, đã cho ra lệnh ngừng khởi nghĩa ngay lập tức. Nhận được lệnh phản đối mà chưa rõ nguyên nhân, các nhà lãnh đạo chần chừ[14]”.

Ông Hồ Chí Minh giải thích cho lệnh tạm ngưng của mình: “Giai đoạn cách mạng hòa bình đã qua, nhưng thời cơ cho tổng khởi nghĩa vẫn chưa tới. Đấu tranh chính trị không còn đủ nữa, nhưng đấu tranh vũ trang vẫn đang quá nguy hiểm cho chúng ta. Cuộc đấu tranh phải đi từ chính trị tới vũ trang. Nhưng trước mắt, đấu tranh chính trị cần được ưu tiên hơn đấu tranh vũ trang[15]”.

Sau sự can thiệp này, đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập, tên gọi biểu tượng chứng minh cho nguyên tắc tuyên truyền vũ trang: mặc dù đã có vũ khí, nhưng tổ chức này vẫn tiếp tục ưu tiên cho hành động tuyên truyền chính trị. Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân thành lập ngày 22/12/1944 tại Cao Bằng, lãnh đạo bởi ông Võ Nguyên Giáp, ban đầu gồm 34 chiến sĩ, được tuyển chọn khắt khe.

Lễ thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân tại khu rừng Trần Hưng Đạo, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, ngày 22/12/1944. Ảnh: BTLSQG

Đó là những bài học kinh nghiệm được rút ra từ tác phẩm của ông Giáp năm 1947 về thời kỳ này. Chúng là cơ sở tham khảo cho một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, được xuất bản cùng năm, mô tả những nét chính của cuộc chiến tranh cách mạng diễn ra trong 8 năm của Việt Nam: “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của Trường Chinh.

2. Cách mạng Tháng Tám năm 1945

Nhưng tình hình thay đổi nhanh chóng khi quân Nhật lên nắm quyền ngày 9/3/1945. Ngày 11/3, quân Nhật làm chủ cả nước. Cuộc kháng chiến được tổ chức lại để tấn công quân Nhật. Các hành động ngày một gay gắt, quyết liệt, chiến tranh du kích bùng nổ, các thành phần vũ trang khác nhau thống nhất trong hàng ngũ Quân Giải phóng Việt Nam, một vùng tự do chính thức được thành lập, nơi đặt chính quyền nhân dân mới được thành lập. Những người cộng sản Việt Nam cảm thấy thời cơ đã tới. Thật vậy, từ tháng 8 năm 1944, Đảng Cộng sản Đông Dương đã phân tích rất nhiều và chính xác những hoàn cảnh sẽ mang lại cho họ quyền lực. Một chỉ thị ngày 6 tháng 8 của Việt Minh nêu rõ:

“Cuộc khởi nghĩa vũ trang của nhân dân ta sẽ diễn ra vào giai đoạn cuối của cuộc Chiến tranh thế giới, khi Anh, Mỹ và Trung Quốc tiến vào Đông Dương khi phe Gaullist và phát xít Pháp [Chính phủ Vichy, ND] xung đột tại Đông Dương, khi Pháp và Nhật đánh nhau và khi phát xít Pháp – Nhật xung đột với các nước dân chủ.

Thời cơ đang đến gần […] Đức gần như bị đánh bại và thất bại của họ sẽ khiến Nhật không đủ khả năng chống lại cuộc tấn công. Khi đó, người Trung Quốc và Mỹ sẽ tiếp quản Đông Dương, trong khi phe Gaullist sẽ nổi dậy chống lại người Nhật. Có thể người Nhật sẽ lật đổ phát xít Pháp để thành lập chính quyền quân sự.

Tất cả các chính phủ bù nhìn bất lực và yếu đuối sẽ sụp đổ, Đông Dương sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn. Chúng ta không cần lấy thứ quyền lực mà không mang lại quyền lực thật sự. Chúng ta sẽ thành lập một chính quyền khiến kẻ thù của ta – Pháp và Nhật – biến mất, bất lực trong duy trì uy tín của mình vì sự yếu kém về mặt quân sự.

Sau khi thoái vị ngày 25/8/1945, cựu Hoàng Bảo Đại để tỏ thiện chí ủng hộ Việt Minh đã gặp mặt Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách một “công dân bình thường”. Ảnh: Pictures from History

Chúng ta sẽ chiến đấu tới khi kẻ thù kiệt quệ tinh thần, yếu ớt, đến mức quân đội sẽ không gặp khó khăn gì để giành chiến thắng.  

Nhưng nước Anh, Mỹ, Trung Quốc và phe Gaullist có để yên cho chúng ta bảo vệ sức mạnh và nền độc lập mới ra đời của chúng ta? Liệu Chính phủ De Gaulle mới thành lập có tiếp tục duy trì chính sách cũ tại Đông Dương? Hay Anh, Mỹ, hoặc Trung Quốc sẽ thay chân Pháp? Nếu đánh đuổi quân phát xít là dễ dàng thì liệu có dễ dàng để bảo vệ chính quyền, sự tự do, độc lập vừa có?

Vì vậy, cuộc nổi dậy tiếp theo của chúng ta sẽ diễn ra trong điều kiện thuận lợi độc nhất vô nhị của lịch sử đấu tranh nước ta. Thời điểm và các yếu tố vô cùng thuận lợi, không thể chấp nhận được nếu ta không tận dụng được chúng. Đó sẽ là tội đồ chống lại lịch sử nước nhà[16]”.

Và Philippe Deviller nhấn mạnh vào tính chất “tiên tri hoàn toàn” của văn bản này. “Biết cách nắm bắt thời cơ thích hợp” và, với nhân dân Việt Nam, là một trong những nghệ thuật đấu tranh cách mạng quý giá nhất.

Những điều kiện được dự đoán cho khởi nghĩa đang bắt đầu trở thành hiện thực. Chiến tranh du kích đang gia tăng, trong khi các phong trào quần chúng chiếm kho thóc (gạo) ngày càng được thúc đẩy. Trên thực tế, người Nhật tích trữ gạo gây ra nạn đói trầm trọng, chủ yếu ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam, đi kèm đó là giá cả tăng chóng mặt. “Sau ngày 9/3, hai thế lực hình thành ở Việt Nam: chính quyền nhân dân cách mạng và chính quyền bù nhìn thân Nhật. Ở một số địa phương, các thắng lợi cục bộ đã mang lại sức mạnh cách mạng. Ngày 16/4, Tổng ủy Việt Minh ra chỉ thị về việc tổ chức các Ủy ban Giải phóng khu vực hay Chính phủ Cách mạng lâm thời của nước Việt Nam mới[17]”.

Cần chờ đợi sự thất bại của quân Nhật. Sự kiện ấy công bố vào ngày 14/8. Trong vài ngày sau đó, cuộc nổi dậy diễn ra khắp nơi trên cả nước. Nhiều vùng chưa nhận được chỉ thị từ BCH Trung ương, nhưng dựa vào những phân tích trước đó, có trách nhiệm phát động cuộc đấu tranh. Ngày 28/8, lá cờ đỏ sao vàng của Việt Minh tung bay trên khắp nước Việt Nam. Đó là khởi nghĩa Tháng 8 năm 1945. Lần đầu tiên Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo một chính phủ trên khắp Việt Nam. Chính phủ lâm thời thành lập ngày 29/8, gồm ông Hồ Chí Minh (Chủ tịch nước và Ngoại giao), ông Võ Nguyên Giáp (Nội vụ), Trần Huy Liệu (Tuyên truyền), Chu Văn Tấn (Quốc phòng), Phạm Văn Đồng (Kinh tế).

Khởi nghĩa Tháng 8 đem lại nhiều bài học. Nó là minh chứng cho sự nhạy bén chính trị và khả năng lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Nó chứng tỏ rằng bất chấp những mối liên hệ được thực hiện trong cuộc chiến giữa những người theo phe Gaullist và những người Trung Quốc theo Quốc Dân đảng, Việt Minh không phục tùng bên nào; và rằng chương trình soạn ra năm 1944 đã được áp dụng cẩn thận. Thực tế, sự tách biệt trong chính sách của Đảng Cộng sản Đông Dương và đường lối theo chủ nghĩa Stalin của quốc tế Cộng sản rõ ràng hơn bao giờ hết. Thật vậy, ở Potsdam, các “ông lớn”, Liên Xô đã quyết định số phận của Việt Nam sau chiến tranh. Nước Pháp, vắng mặt tại hội nghị này đã không được hưởng lợi gì từ việc phân chia mới. Nhưng sự phân chia này cũng không có lợi gì cho người dân Việt Nam! Không có sự độc lập, miền Bắc, cho tới vĩ tuyến 16, sẽ do quân đội Trung Quốc Quốc Dân đảng tiếp nhận, miền Nam rơi vào tay người Anh.

Và chúng ta biết Liên Xô sẽ đặc biệt chú trọng tới việc kiên quyết thực thi các thỏa thuận này (như ở Hy Lạp, Nam Tư, Pháp…). Mặc dù nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập năm 1945 nhưng phải đến tận năm 1950, hai tháng sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập, Liên Xô mới công nhận nhà nước Việt Nam.

Tuy vậy, dù Cách mạng Tháng Tám là một chiến thắng vô cùng quan trọng với Việt Nam, căn cứ vào tình hình và nhiệm vụ được giao, một trong những điểm quan trọng nhất của thời kỳ này có vẻ là điểm yếu của Đảng Cộng sản Đông Dương và Việt Minh. Chúng ta biết rằng ở miền Nam, sau khi cuộc khởi nghĩa Sài Gòn bị đàn áp, phần lớn các tổ chức cộng sản bị giải thể, và ở phía Bắc, phải rất muộn – năm 1945 – Việt Minh mới đi qua giai đoạn đầu tiên của dân quân, tự vệ, xung kích để thành lập Quân Giải phóng. Đảng khi đó phải có vài nghìn đảng viên trên cả nước. Nhưng hơn cả, Cách mạng Tháng Tám là khúc dạo đầu của đỉnh cao một cuộc chiến tranh lâu dài, cho phép tổ chức quần chúng và quyền lực nhân dân tiến bộ. Cuộc chiến này kéo dài 9 năm từ 1946 đến 1954.

Điểm yếu này đã đặt Đảng Cộng sản Đông Dương và Việt Minh vào một tình thế hết sức khó khăn. Lên nắm quyền “một cách nhanh chóng”, không có các phương tiện chính trị, quân sự để bảo vệ sự tồn tại của mình, họ sẽ tìm cách thỏa hiệp để có thêm thời gian. Những năm 1945 và 1946 vừa thể hiện đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương, vừa bộc lộ những mơ hồ chưa được nâng lên thành  lý thuyết về việc trở nên độc lập với điện Kremlin.■

Pierre Rousset

Lê Hằng Nga (dịch)

Chú thích:

[1] V.N. Giap, Chiến tranh nhân dân, quân đội nhân dân, Maspero, 1967, p. 69-70.

[2] Như trên

[3] Histoire de la Révolution d’août, Hà Nội, 1972, tr.15

[4] Như trên, tr. 16

[5] Như trên, tr. 19

[6] Như trên, tr. 21

[7] Hoàng Quốc Việt, Nhân dân anh hùng, trong V.N.Giáp, Kể chuyện kháng chiến Việt Nam, Maspero, tái bản năm 1971, tr. 141

[8] Histoire de la Révolution d’août, Hà Nội, 1972, tr. 30

[9] Như trên, tr.29

[10] Ông Hoàng Quốc Việt cũng giải thích việc lựa chọn tên: “Chúng ta đã để lại mục tiêu “phản đế” vì nó quá khắc nghiệt và cụm từ “chấn hưng dân tộc” vì nó bị phe thân Nhật lạm dụng. Cuối cùng chúng ta lấy tên là “Việt Nam Độc lập Đồng minh”, viết tắt là Việt Minh. Hoàng Quốc Việt, sách đã dẫn, tr.142

[11] J. Chesneaux, Các mặt trận lịch sử của chủ nghĩa xã hội Việt Nam trong Truyền thống và cách mạng ở Việt Nam, tr.216-217

[12] Sự suy yếu này là thật. Ban Tuyên truyền của Đảng Cộng sản Đông Dương đã viết rằng Hội nghị Trung ương VII nhấn mạnh sự cần thiết phải “thiết lập lại mối liên lạc của Đảng với Quốc tế Cộng sản cũng như với các bộ phận của Đảng ở nước ngoài”, Histoire de la Révolution d’août, sách đã dẫn, tr.21

[13] Ngô Văn Chiêu, Nhật ký của một chiến sĩ Việt Minh, nhà xuất bản Seuil, tr.20

[14] W.Burchett, Pourquoi le Vietcong gagne, Maspero, 1968, tr.230 – 234

[15] Xem Ch. Rageau, Ho Chi Minh, Editions universitaires, tr.106

[16] Ph. Devillers, Histoire du Vietnam de 1940 à 1952, Editions du Seuile, 1952, tr.111-112

[17] Histoire de la Révolution d’août, đã dẫn, tr.98 – 99

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN