
Cách đây gần 100 năm, vào tháng 2/1930, cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc dân đảng, đứng đầu là nhà yêu nước Nguyễn Thái Học lãnh đạo không chỉ đánh thức lòng yêu nước của toàn dân tộc mà còn làm rung chuyển cả nước Pháp. Mặc dù bị đàn áp nhanh chóng ở nhiều địa phương trên khắp miền Bắc, nhưng cuộc khởi nghĩa đã làm lộ rõ các yếu điểm của quân đội Pháp tại Đông Dương, buộc Pháp phải đưa ra nhiều chính sách cả về quân sự và dân sự để củng cố quyền kiểm soát thực dân của mình. Tạp chí Phương Đông trích dịch giới thiệu tới bạn đọc nghiên cứu của Tobias Rettig, Giáo sư ngành Nghiên cứu Đông Nam Á tại Trường Đại học Quản lý Singapore, phần viết về những biện pháp đáp trả của thực dân Pháp sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Ngôn từ trong bài viết được dịch nguyên văn để bạn đọc tiện nghiên cứu, tham khảo.
***
Cuộc binh biến ở Yên Báy (Yên Bái) đã dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng trong nội bộ quân đội thuộc địa ở Đông Dương. Niềm tin vào lòng trung thành của binh lính Việt Nam – vốn chưa bao giờ chắc chắn – cũng như niềm tin vào các thể chế và cơ chế nhằm đảm bảo sự hiện diện của Pháp đã bị tổn hại nặng nề. Tuy nhiên, do đội quân này có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự kiểm soát của Pháp trên toàn Đông Dương, việc tái khẳng định độ tin cậy của công cụ này trong sức mạnh đế quốc là vấn đề vô cùng cấp thiết. Vì vậy, sau sự kiện Yên Bái, các nhà hoạch định chính sách quân sự và dân sự – ở cả Đông Dương và Pháp – phải tập trung giải quyết vấn đề lòng trung thành của binh lính bản địa ở Đông Dương. Họ đưa ra nhiều đề xuất liên quan đến sự tham gia của binh lính Đông Dương trong quân đội ở thuộc địa trong tương lai, đồng thời cố gắng thúc đẩy lợi ích của các thể chế của chính họ.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Các lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930 (từ trái sang): Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Nguyễn Khắc Nhu, Đoàn Trần Nghiệp (Ký Con).
Trừng phạt và thanh lọc: đàn áp bằng tòa án dân sự
Một trong những biện pháp đầu tiên được Pháp thực hiện sau cuộc binh biến Yên Bái là việc thanh lọc các đơn vị và đưa những người bị “đầu độc tư tưởng” vào trại giam hoặc vào các đơn vị kỷ luật tách biệt. Việc này liên quan đến một cuộc thanh trừng nội bộ trong quân đội do các cơ quan quân sự tổ chức, cũng như việc chính quyền dân sự truy tố quân nhân và thường dân tham gia cuộc binh biến và nổi dậy của Việt Nam Quốc dân Đảng nói chung.
Việc đàn áp bằng tòa án được thực hiện bởi Hội đồng Đề hình Bắc Kỳ, do Toàn quyền Pasquier lập ra vào ngày 12/2/1930[1]. Hội đồng này được tập hợp 5 lần ở 4 nơi khác nhau trong năm 1930, truy tố 547 cá nhân – cả binh lính và dân thường – và tuyên 80 án tử hình (không phải tất cả đều được thực thi), 102 án lao động cưỡng bức chung thân, 243 vụ trục xuất, 37 án phạt lao động cưỡng bức trong 20 năm, 6 án lao động cưỡng bức ngắn hơn, 2 án tù chung thân và 1 án tù 20 năm. Có 18 người trắng án, và 58 cá nhân không thể bị truy tố do thiếu bằng chứng. Ngoài Hội đồng Đề hình, các tòa án cấp tỉnh cũng tham gia vào cuộc đàn áp.
Số lượng án tử hình lớn nhất được tuyên bố bởi Hội đồng Đề hình Bắc kỳ đầu tiên. Hội đồng này tập trung tại Yên Bái để xét xử những người tham gia vào cuộc binh biến và các nỗ lực nổi dậy ở gần đó. Trong số 87 người bị kết án ở Yên Bái, có 46 người là quân nhân. Một số người trong số họ lập luận rằng họ “bị bất ngờ và buộc phải tham gia cuộc nổi dậy”[2]. Trong số 87 người bị kết án, 39 người bị kết án tử hình, 5 người bị trục xuất, 33 người bị phạt lao động cưỡng bức chung thân, 9 người bị tù 20 năm, và một người chịu án 5 năm lao động cưỡng bức. Trong số những người bị kết án tử hình có 24 thường dân và 15 quân nhân.
Tại Pháp, tính nghiêm trọng của các án phạt đã dẫn tới một chiến dịch do Đảng Cộng sản Pháp phát động cùng nhiều cuộc biểu tình phản đối, khiến những người Việt Nam liên quan bị bắt giữ và cho hồi hương. Do số lượng án tử hình quá nhiều, Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp Piétri đã can thiệp với Toàn quyền Pasquier, và kết quả là chưa thể thi hành án tử hình nếu vụ án chưa được một ủy ban ân xá xem xét. Lệnh ân xá của Tổng thống Pháp đã giảm số án tử hình được tuyên tại Yên Bái từ 39 xuống còn 13, chỉ từ chối ân xá cho những người đã giết một sĩ quan hoặc hạ sĩ quan Pháp hoặc một người lính bản xứ. Thường dân được hưởng lợi nhiều hơn từ việc này, vì binh lính đã thực hiện hầu hết các vụ giết người tại Yên Bái. Trong số 13 người bị xử chém vào ngày 17/6/1930 có các nhà lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam Quốc dân Đảng là Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính[3]. Trái ngược với những hình phạt này, các biện pháp áp dụng với các sĩ quan Pháp do cẩu thả đã góp phần gây ra cuộc binh biến ở Yên Bái lại khá lỏng lẻo. Thống sứ Bắc kỳ Robin đã cho Công sứ Hải Dương Massimi thôi chức ngay sau cuộc binh biến. Không có hành động nào được thực hiện đối với Chỉ huy trưởng Le Tacon, người chịu trách nhiệm chính về những thiếu sót về an ninh tại Yên Bái. Cả Robin và Tướng Aubert, những người chịu trách nhiệm cuối cùng về những thiếu sót của cấp dưới, đều không bị trừng phạt.
Trừng phạt và thanh lọc: đàn áp trong nội bộ quân đội
Song song với việc truy tố của Hội đồng Đề hình, Tướng Aubert – Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, người đã rất khoan dung đối với Le Tacon – đã tổ chức một cuộc thanh trừng nội bộ trong quân đội với mục đích tái khẳng định quyền kiểm soát đối với các lực lượng vũ trang bản địa ở Bắc Kỳ bằng cách xác định, trừng phạt, cô lập, và có lẽ là giáo dục lại những người lính bất trung, và từ đó làm gương cho những người khác. Theo Morlat, 545 lính và hạ sĩ quan là đối tượng của các biện pháp trừng phạt: 164 người bị chuyển đến các đơn vị kỷ luật ở Bắc Kỳ, 94 người đến Châu Phi…, 57 người được giao cho chính quyền dân sự, và 160 người bị hạ cấp bậc và cho nghỉ việc không lương. Những biện pháp này cho thấy mức độ bị thâm nhập của quân đội, và chứng minh rõ ràng rằng trách nhiệm chính cho cuộc binh biến được coi là ở phía Việt Nam hơn là phía Pháp.
So với làn sóng đàn áp Việt Nam Quốc dân Đảng lần đầu vào năm 1929, khi 121 binh sĩ bị tình nghi là thành viên của đảng này bị trừng phạt và 40 người bị điều tra, các biện pháp được thực hiện lần này nghiêm khắc và sâu rộng hơn nhiều. Hơn 500 trong số 12.000 binh lính bản địa ở Bắc Kỳ – tức là 4,5%, hay cứ 22 binh sĩ thì có 1 người – bị trừng phạt do sự đàn áp nội bộ của quân đội, qua đó cho thấy mức độ những người lính Việt Nam ở Bắc Kỳ bị đánh giá có dính líu tới vào các hoạt động trái với nghĩa vụ quân sự của họ.
Điều chuyển binh lính
Ngoài các hình phạt trên, các biện pháp trừng phạt nội bộ khác đã được thực hiện để làm cho quân đội an toàn trở lại. Theo đại tá về hưu Maurice Rives, người không cung cấp nguồn dữ liệu hoặc bất kỳ lý do nào cho biện pháp này, “việc điều chuyển 10.000 người Bắc Kỳ đã được tuyên bố”[4]. Nếu thông tin này là chính xác, thì hơn 80% trong số gần 12.000 lính khố đỏ Bắc Kỳ đã bị điều chuyển, một sự chuyển quân với tỉ lệ vô cùng lớn, và cho thấy mức độ mà bộ chỉ huy quân sự của Đông Dương cảm thấy không an toàn về kỷ luật của quân đội Đông Dương, cũng như mức độ mà họ quyết tâm không để những sự việc như Yên Bái xảy ra trong tương lai.
Tuy nhiên, một lý do có vẻ hợp lý cho biện pháp này có thể là mong muốn phá vỡ các tổ chức chưa bị phát hiện và cắt đứt các mối quan hệ cá nhân, cả trong các đơn vị và giữa binh lính với dân thường địa phương. Hơn nữa, việc điều chuyển binh lính có thể đã được dự kiến – và chắc chắn có tác dụng – tạo ra một tình trạng huy động quân liên tục, do đó sẽ không thể có thời gian hoặc cơ hội cho việc tổ chức chống thực dân. Nó cũng sẽ buộc các sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp phải cảnh giác hơn, vì “một đội quân không hoạt động hiệu quả và không được trông coi chu đáo, mất tinh thần kỷ luật; hay nói đúng hơn là một đội quân nhàn rỗi, thì không thể có kỷ luật”[5].
Giảm lính Đông Dương phục vụ trong quân đội ở “mẫu quốc”
Ngoài ra, 2.000 binh lính Đông Dương trở về từ “mẫu quốc” đã được cho nghỉ phép và dường như không được thay thế. Nguyên nhân có vẻ là do kỷ luật quân sự trong các quân chủng ở “mẫu quốc” – các đơn vị quân đội phi chiến đấu – yếu hơn nhiều so với ở Đông Dương và trong các đơn vị đồn trú ở thuộc địa, nơi quân đội thuộc địa và trật tự xã hội có thể được tái thiết lập dễ dàng hơn. Việc “mẫu quốc” thiếu các sĩ quan chuyên trách chỉ huy binh lính thuộc địa được cho là một trong những nguyên nhân gốc rễ của tình trạng mất kỷ cương, vì họ không biết cách chỉ huy binh lính Việt Nam – trái ngược với các đồng nghiệp của họ ở thuộc địa. Tuy nhiên, nhìn từ một góc độ khác, điều này có thể có nghĩa là các sĩ quan “mẫu quốc” đối xử với cấp dưới người Việt của họ bình đẳng hơn. Nếu đúng như vậy, điều này sẽ lật đổ hệ thống cấp bậc trong quân đội thuộc địa của Đông Dương, vốn dựa trên sự bất bình đẳng giữa kẻ đi đô hộ và người bị đô hộ.
Bị loại bỏ khỏi kỷ luật và môi trường mà họ từng quen thuộc, những người lính này sẽ trở nên xa lạ đến mức họ trở thành mục tiêu dễ dàng cho sự tuyên truyền của những người cộng sản. Sau khi trở về Đông Dương, họ sẽ cố gắng truyền bá tư tưởng cộng sản cho những người lính khác. Dòng suy nghĩ này, dù đúng hay không, đã duy trì nhận thức rằng những ý tưởng lật đổ đến từ bên ngoài chứ không phải từ bên trong: trong số 57 binh sĩ tham gia cuộc binh biến, 17 người đã từng phục vụ ở nước ngoài. Tuy nhiên, theo Báo cáo của Chuẩn tướng Thiry, tỷ lệ binh lính có kinh nghiệm ở nước ngoài tại Yên Bái không cao hơn ở các đơn vị đồn trú khác, do đó không có gì bất thường[6].
Cho dù nghĩa vụ quân sự tại các đơn vị ở “mẫu quốc” có hiệu quả hay không, nhiều tài liệu học thuật về những người lính “tạm trú” này đều lưu ý rằng thời gian ở Pháp là một trải nghiệm xã hội hóa và cá nhân hóa khiến họ biến đổi sâu sắc. Cả bên trong doanh trại và bên ngoài, những người lính Việt Nam đều thường được đối xử bình đẳng hơn ở thuộc địa. Họ được tiếp xúc với những ý tưởng không được bày tỏ một cách cởi mở ở Đông Dương. Họ có thể có quan hệ với đàn ông Pháp, với phụ nữ Pháp và với các dân tộc thuộc địa khác. Hơn nữa, họ có thể thấy rằng tất cả đều không ổn ở Pháp. Tóm lại, do phục vụ ở nước ngoài, có khả năng ít nhất một số binh sĩ trở về sẽ cố gắng hợp lý hóa sự khác biệt giữa kinh nghiệm của họ ở Pháp và kinh nghiệm của họ ở Đông Dương: và cùng với sự khác biệt trong kỷ luật ở thuộc địa và ở “mẫu quốc”, điều này có thể dẫn tới một quan điểm chỉ trích hơn với cấp trên của họ, dẫn tới sự thiếu kỷ luật, và có lẽ cả thái độ phê phán hơn đối với trật tự thuộc địa.
Sa thải binh lính dễ dàng hơn
Liên quan tới các nỗ lực xác định, cô lập, cải tạo hoặc loại bỏ những người lính “bị nhiễm độc tư tưởng” là những nỗ lực nhằm thay đổi các quy định sa thải. Các nhà chức trách quân sự cho rằng quy định hiện tại là quá có lợi cho binh lính. Điều này đã làm nảy sinh lời phàn nàn rằng trong khi viên quan quản lý cấp tỉnh của Pháp có thể sa thải một vệ binh bản xứ (lính khố xanh) bị nghi ngờ mà không cần thông báo trước[7], thì việc này lại không thể xảy ra trong quân đội vì những lý do pháp lý – điều này giải thích tỷ lệ nổi loạn được cho là thấp hơn trong đội ngũ vệ binh.
Các cơ quan quân sự đã tìm cách thay đổi được quy định. Một nghị định ngày 8/4/1930 cho phép Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương “cho giải ngũ những người lính từng là đối tượng bị tòa án quân sự kết án hơn ba tháng tù giam, hoặc những người sẽ tự kết tội mình vì các hoạt động trái với nghĩa vụ quân sự”. Mặc dù các căn cứ để sa thải vẫn còn khá nghiêm ngặt – và chỉ có sĩ quan cấp cao nhất ở Đông Dương được phép thực hiện các biện pháp này, và chỉ trong những điều kiện nhất định – thì điều khoản cuối cùng ở trên có thể được giải thích khá tự do. Rất khó để đánh giá tác động của quy định mới này vì thiếu các nguồn cho biết tần suất áp dụng quy định này, nhưng sức ép của nó là rất rõ ràng.
Cải thiện cơ quan tình báo quân đội (SRM)
Việc trừng phạt binh lính, thay đổi quy định cho xuất ngũ, cắt giảm số lượng quân nhân người Việt tại Pháp dường như vẫn chưa đủ đối với giới chức quân sự. Để ngăn chặn những vụ Yên Bái trong tương lai, họ nhận ra rằng cần phải cải thiện cơ quan tình báo quân đội. Mục tiêu này được thực hiện bằng cách củng cố hoạt động tình báo quân sự thông qua các liên hệ chặt chẽ hơn với Sở Mật thám Đông Dương, và bằng những cải tiến nội bộ.
Về vấn đề thứ nhất, các cuộc điều tra về cuộc binh biến ở Yên Bái đã chứng minh rõ ràng rằng không hề có sự hợp tác giữa Công sứ Massimi và Chỉ huy trưởng Le Tacon, mặc dù đã được yêu cầu nhiều lần, và điều này là một phần nguyên nhân dẫn đến việc không ngăn chặn được cuộc binh biến. Mặc dù quan hệ giữa chính quyền quân sự và dân sự ở Bắc Kỳ vốn luôn cực kỳ kình địch, nhưng Yên Bái có lẽ là nơi duy nhất đứt gãy hoàn toàn sự hợp tác quân sự – dân sự. Các cuộc nổi loạn theo kế hoạch sau đó của Việt Nam Quốc dân Đảng tại các đơn vị đồn trú khác, chẳng hạn như Kiến An, đã bị phát hiện và ngăn chặn vào phút chót[8]. Tuy nhiên, dù những thiếu sót về tình báo chỉ đặc biệt nghiêm trọng tại Yên Bái, nhưng dưới áp lực từ chính quyền dân sự – khi họ tuyên bố rằng quân đội đã không hợp tác đầy đủ trong quá khứ – các nhà chức trách quân sự ở Đông Dương đã nhận ra rằng họ phải cải thiện sự hợp tác với Sở Mật thám để ngăn chặn các vụ Yên Bái trong tương lai. Vì những lý do này, Patrice Morlat viết, cuộc binh biến ở Yên Bái đã cho phép Sở Mật thám Đông Dương “gián tiếp xâm nhập vào lĩnh vực quân sự mà trước đó họ không thể tiếp cận được”.
Tuy nhiên, điều quan trọng cần ghi nhớ là sự xâm nhập gián tiếp phát sinh từ binh biến Yên Bái này dường như chỉ là hoàn tất một quá trình đã bắt đầu ít nhất nửa năm trước đó. Một số nguồn chỉ ra rằng quá trình này đã được kích hoạt bởi cuộc đàn áp của nhà nước thuộc địa đối với Việt Nam Quốc dân Đảng (VNQDD) và các tổ chức chống thực dân khác vào đầu năm 1929. Điều này đã làm sáng tỏ sự xâm nhập có hệ thống của VNQDD vào quân đội, và đã dẫn đến một cuộc đàn áp quân sự với những binh lính có liên quan tới các tổ chức chống thực dân. Đến tháng 10/1929, sau khi dân chúng chỉ trích nặng nề chính sách thông tin của quân đội vào tháng 7, các nhà chức trách quân sự Pháp cuối cùng đã nhận ra nhu cầu phải thu thập thông tin một cách có hệ thống để chống lại mối đe dọa từ các hình thức tổ chức chống thực dân mới. Vì những thông tin như vậy chỉ có thể được cung cấp bởi Sở Mật thám, ngụ ý rằng các nhà chức trách quân sự giờ đây phải hợp tác chặt chẽ hơn với cảnh sát chính trị thuộc địa. Thật vậy, ba tuần trước Yên Bái, Toàn quyền Pasquier đã chúc mừng Tướng Aubert, Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, về “những kết quả thuận lợi nhất” của “sự hợp tác chặt chẽ [quân sự – dân sự]”.
Cuộc binh biến Yên Bái và việc phát hiện ra rằng VNQDĐ đã phá hoại nhiều đơn vị khác đã tái khẳng định sự cần thiết phải có mối quan hệ quân sự – dân sự chặt chẽ hơn và hoàn tất quá trình cải thiện mối quan hệ này. Theo Morlat, sự thâm nhập gián tiếp của Sở Mật thám Đông Dương vào lĩnh vực quân sự có liên quan đến việc liên kết Cơ quan tình báo quân sự (SRM) với Sở Mật thám và thông tin do Sở này cung cấp, do đó khiến SRM phụ thuộc vào thông tin chính trị và thậm chí cả các phán đoán chính trị và chương trình nghị sự của các cơ quan dân sự. SRM trung ương sau đó chuyển thông tin này đến các chi nhánh địa phương dưới dạng Bản tin SRM. Từ đó, “TẤT CẢ CÁC SĨ QUAN (không chỉ của SRM)” đều được tham gia vào việc nghiên cứu các đảng cách mạng này[9]. Do cuộc binh biến, sau đó, SRM liên hệ chặt chẽ hơn với Sở Mật thám Đông Dương cùng các phương pháp phân tích các tổ chức Việt Nam chống thực dân của Sở này. Số lượng người nhận các thông tin như vậy đã tăng lên đáng kể do quyết định cho phép tất cả các sĩ quan tham gia nghiên cứu về các đảng cách mạng. Do đó, trọng tâm dường như đã chuyển từ việc chỉ quan sát các hoạt động trong quân đội sang xem xét cả những diễn biến trong các tổ chức chống thực dân của Việt Nam nói chung. Điều này không có nghĩa là cơ quan tình báo quân sự hoàn toàn nằm dưới sự ảnh hưởng của Sở Mật thám, vì sự cạnh tranh giữa các tổ chức quân sự và dân sự vẫn tiếp tục tồn tại, nhưng nó bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi sự hợp tác được thể chế hóa này và cách Sở Mật thám phân tích các hoạt động chính trị chống thực dân của người Việt: nó cũng được hưởng lợi từ luồng thông tin tốt hơn giữa hai cơ quan tình báo.
Liệu việc chia sẻ thông tin tình báo được thể chế hóa với Sở Mật thám Đông Dương và nâng cao nhận thức về hoạt động của các tổ chức chống thực dân có mang lại hiệu quả hay không, phần lớn phụ thuộc vào cách vận hành nội bộ của cơ quan tình báo quân đội Pháp. Cuộc binh biến đã cho thấy những thất bại ở cả SRM địa phương và trung ương, là kết quả của những sai sót cá nhân và thể chế. Chỉ huy Le Tacon, người chịu trách nhiệm tổ chức SRM địa phương, đã không hiểu được mức độ nghiêm trọng của tình hình mặc dù đã có nhiều cảnh báo. SRM trung ương có thể đã ngăn chặn được cuộc binh biến nếu viên sĩ quan chịu trách nhiệm về Yên Bái, Slouchez, thông báo cho đầu mối địa phương của anh ta, Tran Uc Sinh, về việc anh ta vắng mặt trong thời gian nghỉ phép, hoặc nếu anh ta thực hiện các biện pháp cần thiết để che chắn trong thời gian vắng mặt. Những thất bại này chỉ xảy ra ở Yên Bái, trong khi các cuộc binh biến đã được lên kế hoạch của VNQDD ở nhiều đơn vị đồn trú khác, chẳng hạn như Kiến An, Nam Định, đã bị ngăn chặn vào phút chót. Vì vậy, thất bại tình báo ở Yên Bái dường như không phản ánh những điểm yếu trong cơ cấu tổ chức tổng thể của SRM, hoặc thất bại trong các biện pháp phân quyền vốn bắt đầu từ đầu năm 1929 nhưng vẫn chưa hoàn tất[10].
Mặc dù Yên Bái đã được chứng minh là ngoại lệ, nhưng điều này không có nghĩa là SRM nói chung hoạt động trơn tru hoặc không thể cải thiện được. Một tháng sau cuộc binh biến, Tổng Chỉ huy Quân đội Pháp tại Đông Dương, Tướng Aubert ban hành Thông báo SRM 660, ngày 11/3/1930, để mô tả (và quy định) những tiêu chuẩn đạo đức và kỹ thuật cần thiết để có một cơ quan tình báo tốt. Thông báo này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tìm hiểu các mục tiêu và phương tiện tổ chức của các đảng chống thực dân, để sau đó tư vấn về các phương tiện có thể chống lại mối đe dọa cách mạng. Bản thông báo cũng cho rằng cần phải nhắc nhở người đọc về hai thông tin tình báo trước đó – vào ngày 25/2 và ngày 17/10/1929 – do đó cho thấy rằng chúng đã không được thông qua một cách toàn tâm toàn ý. Một trong những lý do cho điều này dường như là do thái độ tự mãn của nhiều sĩ quan, khi cho rằng họ có thể “bảo vệ các đơn vị của mình trước sự tuyên truyền cách mạng”, và tinh thần làm việc rất tệ của nhiều hạ sĩ quan châu Âu khi cho rằng vai trò [tình báo] của mình coi như kết thúc khi hết giờ làm việc.
Ngoài việc nêu rõ những gì các sĩ quan nên chú ý, thông báo của Aubert còn chỉ ra cách thu thập những thông tin tình báo quan trọng. Điều này phần lớn phụ thuộc vào sự hợp tác chặt chẽ với các hạ sĩ quan bản địa, những người có vai trò tình báo quan trọng với tư cách là người trung gian giữa cấp trên người Pháp và binh lính Đông Dương. Tuy nhiên, luồng thông tin giữa các sĩ quan Pháp và các hạ sĩ quan Đông Dương không được thông suốt. Rõ ràng, sĩ quan Pháp thường không đủ khéo léo và kín đáo; quan trọng hơn, nhiều người không hề có liên lạc thực sự với các hạ sĩ quan bản địa – có lẽ do thiếu kỹ năng ngôn ngữ hoặc sự quan tâm. Mặt khác, các hạ sĩ quan người Việt dường như không sẵn sàng tiết lộ thông tin, và do đó không cùng chịu trách nhiệm “duy trì tinh thần tốt cho binh lính”. Hơn nữa, và có lẽ quan trọng hơn, bất chấp vẻ ngoài và hành vi tốt của các hạ sĩ quan và lính tập bản địa, họ thường hay phản bội. Điều này đặt ra một vấn đề nghiêm trọng trong việc thu thập thông tin tình báo, đòi hỏi phải kiểm tra chéo thông tin, bên cạnh việc đe dọa trừng phạt nghiêm khắc nếu thông tin không được cung cấp.
Nâng cao trình độ tiếng Việt và tiếng Pháp
Thông báo của Tướng Aubert đã chỉ ra tầm quan trọng của sự liên lạc chặt chẽ giữa các sĩ quan Pháp và các hạ sĩ quan Đông Dương nhằm cải thiện tình báo Pháp, nhưng vẫn bỏ ngỏ liệu điều này có yêu cầu các sĩ quan Pháp cải thiện kỹ năng tiếng Việt hay không. Báo cáo thường niên năm 1930 nói rằng đây được coi là một vấn đề vì “tốt nhất là có càng nhiều càng tốt các sĩ quan và hạ sĩ quan có đủ kiến thức về tiếng An Nam để có thể làm việc với lính tập mà không cần thông dịch viên”. Báo cáo này đề nghị thành lập một “Trung tâm nghiên cứu tiếng An Nam” ở Toulouse như một bước đi đúng hướng và đặt nhiều kỳ vọng vào thực tế là “số lượng lính tập nói tiếng Pháp đang tăng lên không ngừng”. Những biện pháp này sẽ dẫn tới sự giao tiếp trực tiếp hơn giữa các sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp với cấp dưới người Đông Dương của họ. Tuy nhiên, bản báo cáo không hề nghĩ đến việc cải thiện sự giao tiếp ngang hàng – nó thậm chí còn không lần nào đề cập đến điều này – mà chỉ nói đến các kỹ năng ngôn ngữ như một công cụ ra lệnh, là thứ sẽ củng cố cơ bản các mối quan hệ cấp bậc.
Đạt được tỷ lệ “an toàn hơn” hơn trong quân đội
Mặc dù những thay đổi trên là không hề nhỏ, nhưng các chính quyền dân sự và quân sự ở cả Đông Dương và Pháp đều cho rằng vẫn là chưa đủ để họ có thể tái khẳng định quyền kiểm soát quân đội Đông Dương. Do đó đã có thêm 4 quyết định nữa nhằm đạt được sự cân bằng chủng tộc phù hợp trong quân đội ở Đông Dương. Số lượng binh lính người Việt Nam được cho là quá cao và do đó có thể đe dọa sự an toàn. Tỷ lệ an toàn hơn được đặt ra là 50% người Việt Nam và 50% người châu Âu và các dân tộc thiểu số bản địa. Điều này không chỉ cho thấy sự không tin tưởng của Pháp đối với binh lính Việt Nam, mà quan trọng hơn là thể hiện niềm tin rõ ràng của phía Pháp rằng cách tốt nhất để có được lòng trung thành của những người lính Việt Nam là tạo ra sự cân bằng chủng tộc trong quân đội theo hướng thể hiện cho tất cả binh lính Việt Nam – và với cả người dân Việt Nam nói chung – thấy được sự vô ích của nỗ lực binh biến và nổi dậy.
Biện pháp đầu tiên trong 4 biện pháp được đưa ra là đảm bảo độ tin cậy của binh lính Việt Nam, đồng thời cũng nhằm đạt được tỷ lệ chủng tộc phù hợp trong mỗi đơn vị đồn trú. Ngoài những sai lầm cá nhân của Massimi và Le Taco, việc thiếu quân châu Âu tại Yên Bái đã được xác định là nguyên nhân của cuộc binh biến. Người ta lập luận rằng nếu chỉ huy địa phương có nhiều lính châu Âu dưới quyền hơn, thì sự hiện diện của họ sẽ ngăn cản lính địa phương tham gia vào cuộc nổi loạn ngay từ đầu. Mặc dù hợp lý – vì xét cho cùng, một trong những thủ lĩnh của cuộc binh biến đã khuyến khích những người nổi dậy khác bằng cách chỉ ra sự hiện diện yếu ớt của quân Pháp – nhưng lập luận này đã bỏ qua thực tế rằng những thiếu sót về chỉ huy và an ninh là hai nguyên nhân chính của cuộc binh biến. Ngoài ra, người ta lập luận rằng binh lính châu Âu trung thành có thể đã nhanh chóng trấn áp một cuộc binh biến: nhưng điều này bỏ qua thực tế rằng cuộc binh biến ở Yên Bái đã bị đàn áp phần lớn bởi quân đội bản địa, mặc dù chỉ có sự hiện diện yếu ớt của 29 sĩ quan và hạ sĩ quan châu Âu, một nửa trong số họ đã bị loại bỏ hoặc bị vô hiệu hóa ngay từ đầu cuộc binh biến.
Quyết định quay trở lại hệ thống cũ, gồm các đơn vị đồn trú an toàn của người da trắng bên cạnh các phân đội lính đánh thuê quan trọng, được đưa ra sau một cuộc tranh luận căng thẳng giữa chính quyền dân sự và quân sự ở Đông Dương. Đó là một vấn đề gây tranh cãi sôi nổi, một phần vì nó đảo ngược việc tổ chức lại quân đội do Tướng Aubert khởi xướng năm 1928. Việc đảo ngược này cho thấy rõ mối lo ngại nghiêm trọng về tác động của sự tuyên truyền cách mạng đối với lòng trung thành của quân đội bản xứ, và kéo theo đó là sự không chắc chắn về tính an toàn của công cụ thực dân này. Đây là một biện pháp nhằm chứng tỏ sức mạnh và ưu thế của Pháp so với binh lính bản xứ và các nhà cách mạng bạo lực, đồng thời làm rõ rằng sức mạnh vật chất là cốt lõi của chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương.
Nếu tỷ lệ chủng tộc trong quân đội được coi là một vấn đề an toàn thiết yếu ở cấp địa phương – nơi mà tỷ lệ “đúng” được đưa ra nhằm kiểm soát bản năng không trung thành của binh lính Việt Nam hoặc, trong trường hợp xấu nhất, để tiêu diệt họ nhanh chóng – thì chắc chắn tỷ lệ này còn thiết yếu hơn nữa ở cấp độ tổng thể. Nhiều lựa chọn khác nhau được đưa ra: giảm triệt để quân số lính Việt Nam, giảm vừa phải, hoặc giữ nguyên mức quân số.
Đề xuất triệt để nhất được đưa ra bởi Thống sứ Bắc kỳ Robin. Ông ta muốn “xóa bỏ hoàn toàn và triệt để tất cả các trung đoàn lính khố đỏ đang phục vụ ở vùng đồng bằng Bắc kỳ và miền trung” và thay thế bằng “các quân đoàn [nước ngoài] da trắng hoặc thậm chí là các Tiểu đoàn Bắc Phi”. Đề xuất này đã bị Tướng Aubert phản đối. Ông này ban đầu đề xuất bãi bỏ 4 đại đội lính khố đỏ để bù đắp cho việc cử sang một Tiểu đoàn lính Lê dương [Nước ngoài], và thay thế 3 đại đội An Nam [Việt Nam] bằng 3 đại đội người Thượng. Toàn quyền Pasquier cuối cùng đã đi đến một đề xuất thỏa hiệp với Tướng Aubert, đề xuất này sau đó được đệ trình lên Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp, đề nghị “xóa bỏ một trung đoàn lính khố đỏ Bắc Kỳ”.
Tuy nhiên, có hai lập luận chính phản đối rõ ràng bất kỳ sự cắt giảm quân nào ở Đông Dương. Lập luận thứ nhất cho rằng việc giảm số lượng binh lính Việt Nam sẽ khiến những người lính bị sa thải cảm thấy cay đắng và biến họ thành “kẻ thù hiển nhiên của Pháp”; nhưng quan trọng hơn là nó sẽ làm suy yếu khả năng phòng thủ của Đông Dương. Lập luận thứ hai cho rằng việc giảm số lượng lính Đông Dương ở Đông Dương không thể “được dự kiến dưới bất kỳ lý do nào” do “sự cần thiết của phòng thủ bên ngoài”.
Nhưng bất chấp những lập luận phản bác này, quyết định loại bỏ 2 tiểu đoàn An Nam – chứ không phải cả một trung đoàn – đã được đưa ra. Điều thú vị là các nhà hoạch định chính sách của Pháp sẵn sàng mạo hiểm đối đầu với cả sự bất mãn cả trong binh lính Việt Nam bị sa thải lẫn sự suy yếu trước các mối đe dọa bên ngoài: sự mất lòng tin của họ đối với binh lính Việt Nam là quá lớn. Quyết định này dường như đã được thực hiện dễ dàng hơn bởi tính toán rằng những người lính Việt Nam – đặc biệt là nếu họ không thể hoàn toàn tin cậy – không quan trọng lắm đối với việc kiểm soát bên trong và phòng thủ bên ngoài của Đông Dương, vì họ có thể bị thay thế. Các nhà hoạch định chính sách đã tính toán rằng việc giảm quân số Việt Nam có thể được bù đắp bằng sự gia tăng đồng thời số lượng binh lính người châu Âu và dân tộc thiểu số.
Quyết định thứ ba nhằm đạt được tỷ lệ chủng tộc an toàn hơn trong quân đội là “tăng viện cho quân đoàn chiếm đóng” với 3 tiểu đoàn da trắng: một tiểu đoàn lính Lê dương Nước ngoài và hai tiểu đoàn Bộ binh Thuộc địa.
Mặc dù trước cuộc binh biến, Bộ Chiến tranh Pháp đã tuyên bố rõ rằng họ sẽ không thể “cung cấp thêm một Tiểu đoàn châu Âu ở Đông Dương trong Ngân sách năm 1931” vì hạn chế về tài chính, thiếu nhân lực và các vấn đề về tổ chức, nhưng cuộc binh biến Yên Bái đã nhanh chóng tạo ra ý chí chính trị để đưa thêm lính châu Âu sang Đông Dương. Ngay từ giữa tháng 3/1930, Ủy ban Tư vấn Phòng thủ Thuộc địa đã khuyên Bộ trưởng Bộ Thuộc địa rằng “quân đội đồn trú ở Bắc Kỳ sẽ được tăng cường một cách thuận lợi, ngay từ bây giờ, bởi một Tiểu đoàn Bộ binh Thuộc địa Châu Âu”. Tuy nhiên, cuối cùng, tình hình hậu binh biến ở Đông Dương được coi là nguy hiểm đến mức quyết định gửi hai, thay vì một, tiểu đoàn châu Âu đã được đưa ra. Quyết định này còn được bổ sung bằng việc “đưa khẩn cấp một Tiểu đoàn Lê dương nước ngoài tới Bắc Kỳ”, một hành động được chính phủ Pháp quyết định vào ngày 30/4/1930.
Tuy nhiên, cho rằng việc giảm hai tiểu đoàn lính Việt Nam và tăng thêm ba tiểu đoàn cho quân đoàn chiếm đóng vẫn chưa đủ, chính quyền Pháp thấy cần phải tăng số lượng – và do đó là tỷ lệ – của người dân tộc thiểu số trong quân đội Đông Dương. Do đó, để đạt được một tỷ lệ binh lính Việt Nam an toàn hơn, Pháp quyết định tăng cường tuyển mộ những người bản địa không phải người An Nam: người Thổ, Lào, Mọi, Campuchia… Mục đích là đạt được tỷ lệ 50% không phải người An Nam (bao gồm cả người da trắng) trong quân đội thuộc địa của Pháp ở Đông Dương. Cơ sở cho chính sách chủng tộc mới này của Pháp rất rõ ràng, vì “Người Thượng ở Đông Dương, với bản chất thù địch với người An Nam” sẽ “đối lập về nguyên tắc với người An Nam” và “thích nghi tốt hơn để phòng thủ trước những hiểm họa từ bên trong”.■
Tobias Rettig
Minh Thư (dịch)
Chú thích:
[1] Patrice Morlat (1990), La répression coloniale au Vietnam (1908–1940) (Sự đàn áp của thực dân ở Việt Nam 1908-1940), Nhà xuất bản Harmattan, Paris
[2] Claude Paillat (1981), Dossiers secrets de la France contemporaine. Tập 3. La guerre à l’horizon (Hồ sơ bí mật của nước Pháp đương đại), Nhà xuất bản Robert Laffont, Paris
[3] Henri Eckert (1998), ‘Les militaires indochinois au service de la France, 1859–1939’ (Lính Đông Dương phục vụ Pháp, 1859–1939), Luận văn Tiến sĩ, Đại học Paris-Sorbonne
[4] Eric Deroo và Maurice Rives (1999), Les Linh Tâp. Histoire des militaires indochinois au service de la France (1859–1960) (Lịch sử lính Đông Dương phục vụ Pháp 1859-1960), Nhà xuất bản Lavauzelle, Paris
[5] Bôn Mat, La nuit rouge de Yên-Bay (Đêm đỏ Yên Báy), không ghi năm xuất bản, nhưng rất có thể là năm 1930. Bôn Mat là bút danh của một sĩ quan Pháp từng sang Đông Dương lần đầu trước năm 1910.
[6] Báo cáo của Chuẩn tướng Thiry gửi Hội đồng Tư vấn Quốc phòng Thuộc địa và Bộ trưởng Bộ Thuộc địa cho phiên họp ngày 21/5 của Hội đồng, không đề ngày, nhưng được viết từ ngày 30/4 đến ngày 21/5 năm 1930.
[7] Anon, ‘La situation au cours de l’année 1930’ (Tình hình năm 1930), một văn bản không ký tên, có thể là một báo cáo của Tướng Gaston Billotte, người kế nhiệm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương – Tướng Aubert, vào cuối năm 1930
[8] Báo cáo của Thống sứ Bắc kỳ Robin Robin [gửi Toàn quyền Pasquier] về sự kiện Yên Bái, ngày 9/3/1930
[9] Biên bản ghi chú SRM ngày 11/3/1930 của Tướng Aubert
[10] Báo cáo của Tướng Aubert gửi Bộ trưởng Thuộc địa Pháp, ngày 25/2/1930