
Ngay sau chiến thắng của nhân dân ta ở Điện Biên Phủ, Pháp và Mỹ bước vào một ván cờ ngoại giao mang tính quyết định trong bối cảnh diễn ra Hội nghị Genève và cục diện tại Đông Dương chuyển sang tình thế mới. Tiếp nối kỳ trước, Tạp chí Phương Đông giới thiệu bản dịch bài viết “Nguy cơ can thiệp quân sự từ Hoa Kỳ trong giai đoạn đàm phán Hội nghị Genève và chiến lược của quốc gia này (1954)” của nhà sử học Césari Laurent phân tích chi tiết tình hình, đăng trên tạp chí “Vingtième Siècle, revue d’histoire” số 23, xuất bản năm 1989.
Bế tắc trong thỏa thuận để đạt được điều kiện của Mỹ
Ngày 14/5/1954, khi nhận được các điều kiện do phía Mỹ đưa ra, Thủ tướng Pháp Laniel và Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Schumann nêu ba điểm phản đối:
1. Họ yêu cầu đảm bảo rằng không quân Hoa Kỳ sẽ can thiệp ngay lập tức – thậm chí trước cả khi hình thành liên minh phương Tây – nếu máy bay Trung Quốc tấn công vào khu vực miền Bắc, nơi quân viễn chinh Pháp không có hệ thống phòng không.
2. Trong khuôn khổ liên minh sắp thành lập, họ yêu cầu cử thủy quân lục chiến Hoa Kỳ sang Đông Dương. Thật vậy, Quốc hội Pháp không bao giờ chấp nhận một cuộc can thiệp của Mỹ mà chỉ giới hạn ở hải quân và không quân. Theo cách nói của Paul Reynaud (Hội đồng Bộ trưởng Pháp), một sự phân công như vậy sẽ biến quân viễn chinh Pháp thành “bộ binh hứng chịu cái chết dưới làn bom Mỹ” (Bidault bổ sung, “cùng với người Xiêm và người Phi”). Ngược lại, việc triển khai lực lượng thủy quân lục chiến – một đơn vị bộ binh có thể được sử dụng mà không cần Quốc hội Mỹ thông qua – sẽ cho phép nhiệm vụ chia sẻ công bằng hơn giữa các đồng minh mà không khiến người dân Mỹ lo ngại về một “chiến tranh Triều Tiên mới” xảy ra trong năm bầu cử Quốc hội.
3. Cuối cùng, họ phản đối điều khoản cho phép các quốc gia liên kết có quyền rời khỏi Liên hiệp Pháp bất cứ lúc nào, điều mà Pháp cho là vi Hiến[2].
Trong khoảng giữa ngày 14/5 đến 11/6, Mỹ chỉ có nhượng bộ duy nhất liên quan đến cách công khai điều khoản ly khai [khỏi Liên hiệp Pháp], mà theo người Pháp thì điều đó vô lý và làm mất mặt một cách không cần thiết. Ngày 26/5, để làm vừa lòng phía Pháp, Dulles đồng ý thay điều kiện đó bằng một cam kết quốc tế và công khai về nền độc lập và chủ quyền của các quốc gia liên kết như được ghi ở Điều 1 của Hiệp ước Matignon ký ngày 4/6/1954. Về bản chất, Dulles không nhượng bộ nhiều, bởi hiệp ước này ngầm công nhận quyền ly khai, vì mối liên hệ giữa hai bên được thiết lập thông qua một “hợp đồng”, nên có thể chấm dứt nếu một bên đơn phương từ bỏ nghĩa vụ cam kết[3].
Trong thời gian đó, phía Pháp đã rất nỗ lực để giành được sự ủng hộ từ Mỹ, nhưng vẫn không thành công. Việc lấy vỏ bọc Liên hợp quốc cho chiến dịch – thông qua đơn kiện của Thái Lan gửi lên Hội đồng Bảo an – không gặp phản đối nào. Từ ngày 28/5, đại diện Pháp tại Liên hợp quốc đã tham gia vào quy trình này. Dù vậy, Bidault không mặn mà gì với việc mở ra một cuộc tranh luận tại Đại hội đồng Liên hợp quốc về chủ nghĩa thực dân của Pháp. Ông thà để cho Anh Quốc – vốn hoàn toàn phản đối can thiệp quân sự – âm thầm phá hoại việc xem xét đơn kiện của Thái Lan[4].
Việc người Mỹ huấn luyện quân đội bản xứ đã được chấp nhận ngay từ đầu. Bidault rất chú trọng điều này nhằm khôi phục tinh thần cho quân đội – vốn đã lung lay sau thất bại ở Điện Biên Phủ – cũng như để đưa càng nhiều vũ khí quân sự Mỹ vào Nam Việt Nam trước khi đình chiến, trong trường hợp có chia cắt. Tuy nhiên, ý muốn kiểm soát chiến lược của Mỹ ở Đông Dương đã vấp phải kháng cự. Tướng Ely không chấp nhận việc Pháp phải chia sẻ với Hoa Kỳ, và vào ngày 31/5, các tướng lĩnh Pháp được thông báo rằng sẽ có việc tích hợp sĩ quan Mỹ vào các bộ tham mưu của quân đội Pháp[5].
Dù có những nhượng bộ ấy, thỏa thuận vẫn không thể đạt được những điểm then chốt. Trước hết, Quốc hội Pháp muốn ngừng chiến tranh mà không chiến đấu, đề nghị của Dulles không đáp ứng được yêu cầu của các bộ trưởng Pháp. Họ cần một lời đe dọa can thiệp ngay lập tức nhằm thúc đẩy hội nghị đạt kết quả. Dulles đưa ra một cam kết có điều kiện rằng chỉ thực hiện khi đàm phán thất bại hoàn toàn[6].
Về vấn đề thủy quân lục chiến, ngày 21/5, Schumann được thông báo rằng Hoa Kỳ không loại trừ khả năng sử dụng họ, nhưng chỉ căn cứ vào nhu cầu quân sự, chứ không phải để đáp ứng vấn đề danh dự của Pháp. Do đó, không có lời hứa nào được đưa ra – và điều này là dễ hiểu: như đã thấy, Bộ Tổng tham mưu Mỹ không có ý định đưa lực lượng bộ binh của mình vào Đông Dương. Eisenhower và Dulles lại có dự định đưa một đơn vị nhỏ đến đó, nhưng chỉ để bảo vệ các căn cứ được hải quân và không quân Mỹ sử dụng chứ không tham gia chiến đấu[7].
Cuối cùng, những nhà đàm phán phía Pháp hiểu rằng quyết tâm chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng của Mỹ có thể kéo dài và mở rộng cuộc chiến. Do đó, họ muốn có cho mình những lối thoát. Ngày 28/5, Đại sứ Mỹ Dillon đưa ra một nhượng bộ mang tính hình thức: theo đà phát triển của quân đội bản xứ, các lực lượng của Pháp và các nước không thuộc Đông Dương tham gia can thiệp sẽ rút dần khi tình hình quân sự cho phép. Phái đoàn Pháp ở Genève ngày 1/6 đã phản ứng lại bằng một điều khoản bao trùm mọi cuộc rút quân: tùy theo nghĩa vụ quốc tế, nhu cầu phòng thủ ở chính quốc và các nghĩa vụ đối với thành viên của Liên hiệp Pháp hoặc những nước bảo hộ, Pháp sẽ duy trì nỗ lực của mình ở Đông Dương. Khi điều khoản dự phòng này được trình bày vào ngày 5/6, Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Bedell Smith đã phớt lờ nó ngay lập tức[8].
Vì vậy, Hoa Kỳ chỉ có thể ghi nhận sự thiếu nhiệt tình của Pháp trong việc chấp nhận đề nghị của họ. Mong muốn được Schumann lặp lại vào ngày 28/5 – được biết thái độ của Mỹ nếu có không kích của Trung Quốc vào miền Bắc Việt Nam trước khi thành lập liên minh phương Tây đã góp phần làm cho Dulles quyết định rút lại đề nghị của mình.
Yêu cầu này thực ra đã được đưa ra hai tuần trước đó, nhưng trong một bối cảnh khác. Ngày 14/5, Pháp yêu cầu Mỹ – như một biểu hiện thiện chí – đáp ứng mong muốn mà họ đã đưa ra suốt nhiều năm. Nhưng vào ngày 28, như Dillon đã báo cho Dulles, Pháp đưa ra yêu cầu để đối phó với một nguy cơ cụ thể: một vụ ném bom Hải Phòng từ máy bay xuất phát ở đảo Hải Nam có thể phá hỏng cảng đến mức không thể sơ tán quân viễn chinh[9].
Do đó, các kế hoạch quân sự của Pháp đã hé lộ khả năng chấp nhận chia cắt. Từ ngày 5/5, các Tổng tham mưu trưởng Pháp đã chỉ ra rằng Việt Minh đang hoạt động ở miền Bắc Việt Nam quá mạnh, không thể cho phép một giải pháp quân sự – ngay cả với sự hỗ trợ ồ ạt từ đồng minh – và dự đoán rằng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sẽ tăng cường hỗ trợ cho Việt Minh nếu Hội nghị Genève thất bại. Họ đã khuyên nên tìm một lối thoát chính trị cho cuộc chiến. Tương tự, nhận thấy không thể thuyết phục Quốc hội gửi quân sang Đông Dương trừ khi có sự đổ vỡ rõ ràng tại Genève do khối xã hội chủ nghĩa gây ra, Ủy ban Quốc phòng Quốc gia Pháp họp ngày 14 và 15/5 đã chấp thuận nguyên tắc phòng thủ ở phía nam vĩ tuyến 18 và ở khu vực châu thổ miền Bắc thì tập hợp lại lực lượng, sẽ rút dần về phía biển khi cần thiết. Cuối cùng, sau chuyến công tác ngày 26/5 tại Đông Dương, các tướng Ely, Salan và Pelissier đã báo cáo với Ủy ban Quốc phòng Quốc gia rằng tương quan lực lượng nghiêng về phía Việt Minh từ ngày 15/6. Người ta dự đoán từ thời điểm này sẽ có một cuộc tổng tấn công vào châu thổ, mà lực lượng hiện có dưới quyền tướng Navarre – Tư lệnh ở Đông Dương, không đủ sức ngăn chặn. Trước đó, Việt Minh đã đề xuất tập hợp lực lượng quân sự trong các vùng rộng lớn và liên tiếp nhau[10].
Trong bối cảnh Pháp đang lùi bước này, một động thái tỏ sự đoàn kết Pháp – Mỹ có thể khiến Việt Minh lo ngại và giảm yêu sách tại Genève. Nó cũng cho phép Bidault thử lần cuối để tránh việc các vùng chiếm đóng tập trung lại cùng nhau. Và cũng sẽ giúp Quốc hội Pháp kêu gọi Hoa Kỳ can thiệp. Vì vậy, ngày 28/5, Schumann đã đề xuất với Dillon thỏa thuận sau: Pháp sẽ tăng cường bố trí quân ở vùng châu thổ và sẽ gửi lính nghĩa vụ sang Đông Dương; đổi lại, Eisenhower yêu cầu được phép sử dụng không quân Mỹ chống lại không quân Trung Quốc tại miền Bắc Việt Nam, ngay cả khi liên minh phương Tây chưa hình thành[11].
Người Mỹ trong giả định do Schumann nêu ra đã quyết định rằng họ sẽ phản ứng bằng cách ném bom các mục tiêu quân sự Trung Quốc. Ý định này phù hợp với chỉ thị NSC 5405 và Eisenhower cũng như Dulles đã nhiều lần nhắc tới điều này vào cuối tháng 5, đầu tháng 6 – cả trong nội bộ Mỹ lẫn với các đại sứ thuộc khối Thịnh vượng chung. Nhưng Dulles đã cố ý từ chối thông báo kế hoạch của mình cho Schumann ngày 31/5, và trả lời rằng trong trường hợp Pháp đưa ra, Hoa Kỳ sẽ chỉ hành động tùy thuộc vào hoàn cảnh và sau khi có sự đồng thuận từ Quốc hội. Quả thật, Dulles lập luận, Hoa Kỳ đã công khai cảnh báo Trung Quốc trước đây rằng họ sẽ coi bất kỳ hành động xâm lược mới nào của Trung Quốc là mối đe dọa đối với an ninh của chính nước Mỹ. Nếu chống lại một cuộc xâm lược như vậy thì là để bảo vệ lợi ích của chính họ, và quyết tâm đó không liên quan gì đến Pháp. Vì vậy, Dulles coi yêu cầu của Schumann như một sự can thiệp vào chính sách của Mỹ và là một bằng chứng nữa cho thấy sự do dự của Pháp trong việc quốc tế hóa xung đột. Do đó, ông không giải thích cho Schumann lý do tại sao mình lại từ chối yêu cầu đó[12].
Cuối cùng, Dulles cũng nhận thức rõ mức độ suy yếu nghiêm trọng của tình hình quân sự tại miền Bắc cùng với ảnh hưởng của Robert Bowie – Giám đốc Ban hoạch định chính sách của Bộ Ngoại giao – ông dần làm quen với viễn cảnh các vùng chiếm đóng sẽ dần tập trung lại một nơi.
Ngày 31/5, Hoa Kỳ chính thức nhận thông báo về việc quân đội Pháp rút lui khỏi miền Bắc Việt Nam, cũng như việc không có bất kỳ kế hoạch tấn công nào liên quan đến quân viễn chinh Pháp. Ngày 1/6, toàn bộ các cơ quan tình báo của Mỹ hoàn tất bản đánh giá về khả năng quân sự của Việt Minh và Trung Quốc tại Đông Dương, và đưa ra dự đoán rằng ngay cả trong trường hợp Mỹ can thiệp quy mô lớn và chiến đấu đến khi thắng lợi thì vẫn phải đối mặt với cuộc chiến du kích kéo dài của Việt Minh. Ngày 3/6, tại Hội đồng An ninh Quốc gia, Allen Dulles – em trai của Ngoại trưởng và là Giám đốc CIA – nhận định rằng sự sụp đổ tại miền Bắc Việt Nam là điều sắp xảy ra. Còn Bowie, tin chắc rằng Pháp sẽ chấp nhận việc tập trung các vùng chiếm đóng, lập luận rằng Hoa Kỳ sẽ chính thức phản đối điều này. Tuy nhiên, ông nói thêm, thực chất, sau đó Hoa Kỳ sẽ buộc phải bảo vệ khu vực Đông Nam Á phía nam đường phân chia, và như vậy sẽ phải công nhận việc các vùng chiếm đóng tập trung lại trên thực tế[13].
Chắc chắn rằng lập luận của Bowie đã gây ấn tượng với Dulles, người mà đến lúc đó vẫn gắng hết sức để tránh tình trạng tập trung các vùng chiếm đóng xảy ra. Hơn nữa, ngày 4/6, đại sứ Úc tại Washington thông báo với Ngoại trưởng rằng nước ông sẽ không chiến đấu ở Đông Dương. Dù lập trường phản đối can thiệp của Anh đã rõ, nhưng thông tin từ Úc khiến ý tưởng biến cuộc can thiệp thành một cuộc “thập tự chinh” hoàn toàn sụp đổ. Dulles trả lời rằng Hoa Kỳ sau một lời phản đối mang tính hình thức có thể chấp nhận sự tồn tại lâu dài của hai quốc gia Việt Nam. Cùng ngày hôm đó, Dulles gửi điện cho Dillon nói rằng, một khi chiến thuật của Laniel (với mục tiêu khiến Quốc hội Pháp kêu gọi sự giúp đỡ từ Hoa Kỳ) được biết và chấp thuận tại Washington thì Mỹ sẽ tiếp tục hành động, nếu tình hình lúc đó vẫn còn giá trị. Lúc này, Dulles đòi hỏi Pháp một điều không thể: một cam kết vô điều kiện, như một điều kiện tiên quyết cho đảm bảo từ phía Mỹ – vốn chỉ là giả định. Trên thực tế, điện tín này tương đương với việc Hoa Kỳ rút lại đề nghị của mình mà không báo trước, và Pháp đã hiểu đúng như vậy[14].
Ngày 8 tháng 6, Schumann được thông báo về bức điện của Dulles, và ngày 11, phái đoàn Pháp tại Genève cũng được biết. Cũng trong ngày 11, Dulles phát biểu tại Los Angeles, nêu rõ những điều kiện (chính là những điều kiện đã được thông báo cho Pháp vào ngày 14 tháng 5 và sẽ sớm được cả thế giới biết đến) mà theo đó Hoa Kỳ sẽ xem xét việc tham gia vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Ông cũng làm rõ rằng, bất kỳ sự can thiệp nào của Trung Quốc vào bán đảo Đông Dương sẽ lập tức dẫn đến sự đáp trả của Mỹ[15].
Bidault bị sốc trước sự tiết lộ này, nhất là vì trong suốt cuộc đàm phán, Hoa Kỳ luôn yêu cầu Pháp giữ bí mật. Ngày 16/6, ông viết thư, chỉ thị cho Đại sứ Bonnet phải phản đối với Bộ Ngoại giao Mỹ: “Tôi buộc phải tự hỏi về ý nghĩa của việc tiếp tục một cuộc đàm phán mà ở đó chúng ta phải đưa ra các cam kết mà không có sự đảm bảo nào về phía đối tác, thậm chí không có cả định nghĩa rõ ràng… Mối đe dọa mà chúng ta đã cố gắng đặt ra đối với Trung Quốc và Việt Minh, ít nhất như một yếu tố trong đàm phán, giờ không còn giá trị nữa”. Ngày hôm sau, trong một bầu không khí căng thẳng, Bonnet thực hiện chỉ đạo này. Dulles trả lời rằng: “Chưa bao giờ một cường quốc lớn lại trao cho nước khác quyền lựa chọn việc họ có tham gia chiến tranh hay không”[16]. Chắc chắn rằng Bidault đã không hiểu được sự thật này – một sự thật mà Dulles thực ra đã dày công che giấu trong một khoảng thời gian dài.
Chuẩn bị cho việc thay thế ảnh hưởng của Pháp
Vào thời điểm Dulles và Bidault trao đổi những lời lẽ cay đắng, Hoa Kỳ đã âm thầm chấp nhận nguyên tắc các vùng chiếm đóng tập trung, và các phái đoàn Pháp cùng Việt Minh đang đàm phán về vĩ độ của đường phân chia. Có thể, dù khả năng rất nhỏ rằng đã có một cuộc can thiệp của Mỹ khiến Việt Minh phải nhượng bộ. Thật vậy, sau trận Điện Biên Phủ, lực lượng Việt Minh đã hao tổn không ít. Vào cuối tháng 5, tướng Navarre nhận định rằng một cuộc can thiệp của Mỹ trong thời gian ngắn có thể khiến Việt Minh trì hoãn cuộc tấn công vào vùng châu thổ trong vài tháng, để tranh thủ tái tổ chức lực lượng trong mùa mưa. Tương tự, Jean Chauvel – một trong những nhà đàm phán chính của Pháp tại Genève, ngày 12/6 cũng cho rằng việc phái đoàn Việt Minh vội vã muốn kết thúc đàm phán xuất phát từ một cuộc tấn công đã được lên kế hoạch vào thời điểm cố định, sẽ bị hủy bỏ nếu đàm phán thành công. Viễn cảnh Mỹ tiến hành cuộc can thiệp kéo dài khiến những lực lượng đã mệt mỏi phải tiếp tục gắng sức có thể đã làm cho Việt Minh kiềm chế hơn các yêu cầu của mình. Cũng có thể, Việt Minh đã nhận ra nguy cơ phụ thuộc vào Liên Xô và Trung Quốc nếu tình trạng quốc tế hóa diễn ra, vì vậy, họ muốn đạt được thỏa thuận để tránh tình huống đó[17].
Người ta có thể lập luận rằng Dulles cuối cùng đã góp phần củng cố vị thế của Pháp tại Genève. Lập luận này có thể chấp nhận được, nếu hiểu theo nghĩa rằng Ngoại trưởng Mỹ đã thúc đẩy phía Việt Minh đàm phán. Nhưng đây là một quan điểm khó bảo vệ nếu nhớ rằng Bidault đến hội nghị với mong muốn duy trì ảnh hưởng của Pháp tại Đông Dương.
Thật vậy, ngay cả khi đang đàm phán với Pháp về khả năng can thiệp, Dulles vẫn chuẩn bị cho việc thay thế ảnh hưởng của Pháp tại miền Nam Việt Nam bằng ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Ngay từ đầu tháng 1/ 1954, chiến lược này bắt đầu bằng quyết định của Hội đồng An ninh Quốc gia khi cử một nhân viên CIA – Đại tá Lansdale – sang Việt Nam để tổ chức các lực lượng du kích bản xứ dưới sự kiểm soát hoàn toàn của Mỹ chứ không phải của Pháp. Bản báo cáo từ Bedell Smith đệ trình vào đầu tháng 3 cũng khuyến nghị những biện pháp tương tự như: trình bày mọi hành động can thiệp của phương Tây tại Đông Dương như điều kiện cần thiết để khu vực này giành được độc lập thực sự hoặc đào tạo các chính trị gia bản xứ có tinh thần dân tộc và đại diện cho quần chúng. Vào những ngày cuối tháng 5, ngay trước khi lên đường đi Sài Gòn, Lansdale đã trình bày với Dulles rằng chủ nghĩa chống thực dân là vũ khí hiệu quả nhất chống lại chủ nghĩa cộng sản. Ngoại trưởng Dulles không phản đối gì cả[18].
Chính trị gia chủ nghĩa dân tộc cực đoan mà Dulles hy vọng có thể xây dựng tại miền Nam Việt Nam không ai khác chính là Ngô Đình Diệm, người Công giáo gốc An Nam đang sống lưu vong tại Hoa Kỳ. Hồng y Spellman (Tổng Giám mục New York) bảo trợ cho ông này và vào năm 1953 đã được giới thiệu với một số nhân vật theo xu hướng trung dung như thẩm phán tòa án tối cao William Douglas hay Thượng nghị sĩ Mike Mansfield – một đảng viên Dân chủ và cũng là người Công giáo – những người có quan điểm giống Lansdale. Vào đầu tháng 4/1954, Douglas đã giới thiệu Diệm với CIA, và Allen Dulles (Giám đốc CIA) tỏ ra quan tâm đến nhân vật này[19].
Không rõ CIA bắt đầu “chống lưng” cho Diệm từ thời điểm nào, nhưng đến giữa tháng 5/1954, Bảo Đại nhận được một thông điệp từ Diệm, trong đó ông ta bày tỏ sẵn sàng đứng ra thành lập một chính phủ dân tộc chủ nghĩa cứng rắn. Dù rất ghét Diệm, Bảo Đại vẫn chấp nhận: ông tìm thấy ở chính phủ này một cơ hội để tiếp tục chiến tranh với sự hậu thuẫn của Mỹ, thoát khỏi vòng kìm hãm của Pháp, từ đó ngăn việc tập trung các vùng chiếm đóng quân sự, và nhờ vậy ông hi vọng ngai vàng của mình có thể khôi phục sau đó. Tuy nhiên, đánh giá rằng Bảo Đại đã hoàn toàn mất uy tín, ngày 5/6, Dulles đã từ chối hỗ trợ kế hoạch tiếp tục chiến tranh của vị Hoàng đế này. Thay vào đó, để giữ thế chủ động tại miền Nam, ông ra lệnh phái đoàn Mỹ ở Genève phải khăng khăng rằng “Quốc gia Việt Nam” phải được trao nền độc lập hoàn toàn, không chịu bất cứ giới hạn nào về chủ quyền[20].
Kế hoạch của Bảo Đại càng chẳng có gì hấp dẫn với Dulles, vì đến đầu tháng 6, ông đã ngả về phương án chấp nhận việc tập trung các vùng quân sự. Nhưng vào giữa tháng 6, khi nhà đàm phán của Pháp Jean Chauvel đề nghị phía Mỹ thông báo cho chính quyền “Quốc gia Việt Nam” rằng hội nghị đang đi theo hướng chia cắt ở khoảng vĩ tuyến 18 thì Dulles từ chối. Ông trả lời rằng Hoa Kỳ không thể công khai ủng hộ và cũng không thể bí mật khuyên “Quốc gia Việt Nam” chấp nhận điều đó.
Dulles đã để cho nước Pháp, trước một Diệm vừa mới được bổ nhiệm, gánh lấy tai tiếng của việc chia cắt đất nước. Ngược lại, ông đảm bảo vị thế của Mỹ trong mắt nhà lãnh đạo mới này bằng cách gửi điện tín cho Diệm vào giữa tháng 7, khẳng định rằng Hoa Kỳ không coi việc chia đôi đất nước là vĩnh viễn, và ủng hộ các tuyên bố chủ quyền của “Quốc gia Việt Nam” đối với toàn bộ lãnh thổ. Cũng trong thời gian này, Lansdale trở thành cố vấn thân cận của Diệm[21].
Dulles đã có chủ đích theo đuổi một chính sách loại bỏ ảnh hưởng chính trị và kinh tế của Pháp tại Đông Dương. Theo ông, Pháp đã không ngừng cản trở các sáng kiến của Mỹ trong khu vực và ông sẵn sàng thành lập tổ chức SEATO mà không có Pháp tham gia. Về sâu xa, chính sách này cũng nằm trong khuôn khổ chiến lược “new look” – giống như chiến lược răn đe hạt nhân toàn diện, của chính quyền Eisenhower[22].
Ngay từ tháng 7/1954, Dulles đã quyết tâm phá hoại cuộc tổng tuyển cử năm 1956. Bởi miền Bắc có dân số đông hơn miền Nam, cuộc bầu cử đó nhiều khả năng sẽ dẫn tới việc toàn bộ Việt Nam chuyển sang XHCN. Trong khoảng thời gian giữa hòa bình và cuộc bầu cử đó, Dulles không kỳ vọng vào một cuộc xâm lược từ miền Bắc mà là sự gia tăng các hoạt động phá hoại của cộng sản tại miền Nam. Khối XHCN đã được cảnh báo rằng nếu có hành động tiến quân, họ sẽ phải đối mặt với trả đũa hạt nhân, trong khi Việt Minh rất được lòng dân ở cả miền Bắc và miền Nam. Trong bối cảnh đó, lợi ích của Việt Minh là nắm quyền toàn quốc bằng con đường hợp pháp thông qua bầu cử, trong khi tranh thủ vận động quần chúng miền Nam. Đối với Hoa Kỳ, việc miền Nam chuyển sang chế độ XHCN là điều không thể chấp nhận được. Nhưng làm sao có thể đáp trả bằng vũ khí hạt nhân trước một hành động phá hoại ngầm? Trong trường hợp không có một cuộc tiến công rõ ràng, dư luận trong và ngoài nước Mỹ sẽ cho rằng một cuộc tấn công như vậy là quá mức cần thiết. Hơn nữa, khi chưa có hành vi tấn công, việc xin Quốc hội Mỹ thông qua quyền tuyên chiến sẽ rất khó khăn. Sau nhiều năm đảng Cộng hòa phản đối “cuộc chiến của ông Truman” ở Triều Tiên, Eisenhower không thể mạo hiểm phát động một cuộc chiến tranh không tuân theo hiến pháp[23].
Theo Dulles, giải pháp là ngăn chặn hoạt động lật đổ bằng cách tăng cường chính quyền miền Nam, bố trí các chính trị gia vững vàng, được hậu thuẫn bởi nhiều chuyên gia Mỹ, xung quanh họ sẽ là làn sóng tuyên truyền để gợi lên tinh thần dân tộc. Trong một nhận định mang lại nhiều rắc rối về sau này, Dulles cho rằng chỉ có thể tuyển chọn những chính trị gia ấy từ giới Công giáo miền Bắc. Cuối cùng, từ góc nhìn của ông ta, chương trình này đòi hỏi người Pháp phải ra đi: một mặt để Hoa Kỳ có toàn quyền hành động, mặt khác vì Dulles – cũng như Eisenhower, các tham mưu trưởng, Lansdale và Mansfield – đều tin rằng có thể lôi kéo chủ nghĩa dân tộc trẻ tuổi về phía phương Tây bằng cách trình bày về chủ nghĩa cộng sản như một hình thức “thực dân đỏ”. Mà nếu đã chọn dùng luận điệu chống “thực dân đỏ”, thì không thể tiếp tục ủng hộ một thế lực thực dân khác (Pháp), nhất là khi thế lực ấy không còn sẵn sàng chiến đấu cho lợi ích của Mỹ[24].
Chính sách ở miền Nam Việt Nam của Dulles cũng phù hợp với chiến lược “new look”. Thật vậy, “new look” không chỉ dựa trên đe dọa trả đũa quy mô lớn mà còn giảm ngân sách quốc phòng (cắt giảm lục quân và hải quân) và áp dụng chiến lược bất đối xứng. Nói cách khác, sau sự sa lầy ở Triều Tiên, Mỹ không còn muốn đáp trả các hành động xâm lược bằng sức mạnh tương đương trên chính lãnh thổ bị tấn công nữa. Họ sẽ tấn công ngay vào lãnh thổ của phía khởi xướng với mức độ mạnh hơn vụ ban đầu (trả đũa quy mô lớn), đồng thời ngăn chặn lật đổ bằng cách tăng cường hoạt động của tình báo – tức chiến tranh âm thầm cường độ thấp[25].
Tại Đông Dương, việc Campuchia, Lào và Nam Việt Nam đặt dưới sự bảo vệ của khối SEATO, thành lập tháng 9/1954, đã hoàn thiện hệ thống này. Trong khối này, nếu có một cuộc tấn công xảy ra, Mỹ sẽ đáp trả bằng cách ném bom lãnh thổ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Nhiệm vụ của quân đội bé nhỏ Nam Việt Nam do Hoa Kỳ tài trợ là duy trì trật tự nội bộ và chịu cú sốc đầu tiên nếu bị xâm lược[26]. Nhưng kế hoạch này có một điểm yếu, sau khi giúp Diệm vô hiệu hóa các đối thủ chính trị, Mỹ sẽ không còn công cụ nào để gây áp lực với “sản phẩm của chính mình”, và về lâu dài, chính quyền độc đoán của Diệm sẽ khiến làn sóng lật đổ ngày càng mạnh hơn.
Vai trò của Mỹ tại Đông Dương
Mặc dù Pháp còn do dự, nhưng việc Mỹ từ chối can thiệp quân sự lại khó hòa hợp với những tuyên bố chính thức liên tục nhấn mạnh tầm quan trọng của miền Bắc Việt Nam – vốn được coi là chìa khóa chiến lược cho kế hoạch ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản, và của toàn Đông Dương, đối với an ninh Hoa Kỳ. Người ta cũng có thể tự hỏi, nếu mục tiêu là ngăn chặn khối XHCN mở rộng tới tận Nhật Bản chẳng hạn, mà không phải chỉ dừng ở miền Bắc Việt Nam thì liệu Eisenhower có đồng tình với Quốc hội đến mức khăng khăng rằng việc can thiệp chỉ có thể diễn ra trong khuôn khổ một liên minh?
Vậy Hoa Kỳ do dự có phải vì họ không muốn đơn phương gây chiến mà không có đồng minh ủng hộ? Đúng là Anh phản đối can thiệp, Úc từ chối tham gia, khiến Washington không còn đòn bẩy nào để gây áp lực với Anh. Và việc Mỹ rút lại đề nghị can thiệp trùng với thời điểm Úc từ chối có vẻ có liên hệ. Tuy nhiên, lời từ chối của Úc đến ngay sau khi em trai của Ngoại trưởng Dulles – một người thân cận với chính quyền – đưa ra một đánh giá cực kỳ bi quan về tình hình quân sự tại miền Bắc Việt Nam, điều này hẳn đã khiến Dulles phải cân nhắc lại. Việc Mỹ đột ngột rút lại lời đề nghị cũng làm quan hệ giữa Paris và Washington căng thẳng nghiêm trọng.
Liệu người ta có thể viện dẫn lý do chống thực dân hay mong muốn không can thiệp sâu vào chuyện thiên hạ? Cũng có thể, nhưng một số điều kiện mà Mỹ đưa ra khi đề xuất can thiệp thực ra đã loại bỏ yếu tố thực dân của Pháp trong cuộc chiến, và dù có thể nghi ngờ Pháp có toan tính phía sau thì Paris và Washington vẫn tìm được tiếng nói chung về điểm này. Ngoài ra, những gì chính quyền Eisenhower thực hiện ở Nam Việt Nam từ tháng 6/1954 đã làm rõ hơn khái niệm “độc lập” theo kiểu của Mỹ, vốn không đồng nghĩa với tự chủ hoàn toàn.
Về phía Quốc hội Mỹ, đúng là họ không muốn một cuộc can thiệp mới khi bầu cử đang đến gần. Tuy nhiên, Eisenhower và Dulles đã loại trừ khả năng dùng quân dịch và cũng không định đưa lính thủy đánh bộ vào chiến đấu. Hơn nữa, Dulles đã trình bày đề nghị can thiệp với đại sứ Bonnet dưới sự chấp thuận của Eisenhower, và Tổng thống biết rõ rằng nếu quyết định can thiệp, ông cần thuyết phục được Quốc hội.
Bên cạnh việc cân nhắc các yếu tố chính trị, ta cũng cần đánh giá vị trí của Đông Dương – đặc biệt là vùng Bắc Việt Nam – trong chiến lược ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản mà Hoa Kỳ đã chính thức theo đuổi kể từ sau chiến thắng của Mao Trạch Đông ở Trung Quốc. Thoạt nhìn, vị trí đó có vẻ rất quan trọng. Thật vậy, nhiều tài liệu cho thấy trong con mắt của các nhà ngoại giao và quân sự Hoa Kỳ, việc để mất vùng châu thổ phía Bắc Việt Nam sẽ dẫn đến sự lan rộng của khối XHCN tới tận Indonesia và kênh đào Suez. Nhật Bản – khi giao thương với một châu Á mà CNXH lan rộng – sẽ rời xa khối phương Tây. Tương tự, giới quân sự Mỹ vẫn nhớ rằng trong Thế chiến II, căn cứ không quân hải quân tại Cam Ranh từng là bàn đạp lý tưởng cho không lực Nhật Bản tiến xuống Đông Nam Á. Nhưng, nếu thực sự tin vào học thuyết Domino, thì rất khó hiểu tại sao Dulles lại chỉ đưa ra cho Pháp một “đề nghị kiểu Gascon”, mạnh miệng nhưng thiếu thực tế[27].
Lời giải nằm ở ba sự phân biệt rõ ràng giữa phòng thủ và răn đe, Đông Nam Á với Đông Dương và giữa miền Nam với miền Bắc Việt Nam. Từ sau Thế chiến II, trong các kế hoạch “phòng thủ chiều sâu”, Hoa Kỳ quyết tâm biến Thái Bình Dương thành “hồ nước của Mỹ” và kiên quyết bảo vệ chuỗi đảo từ quần đảo Aleutian đến Philippines. Nhưng sau chiến thắng của Mao Trạch Đông, những cuộc đàm phán căng thẳng giữa Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Mỹ đã dẫn tới bản chỉ thị NSC 48/2 ngày 30/12/1949, trong đó xác định rằng Mỹ phải bảo vệ cả lục địa Đông Nam Á giống như đã cam kết với chuỗi đảo[28]. Tuy vậy, sự phân biệt giữa đảo và lục địa vẫn còn tồn tại. Từ năm 1945, Bộ Tổng tham mưu Mỹ luôn chuẩn bị sẵn kế hoạch bảo vệ chuỗi đảo. Ngược lại, vào tháng 11/1950, họ tuyên bố rằng không hề có kế hoạch nào để bảo vệ Đông Dương nếu xảy ra chiến tranh quy mô lớn, nhưng trong bối cảnh chiến tranh lạnh, cần phải ngăn chặn chiến thắng của Việt Minh. Bởi vì, một chiến thắng như thế sẽ tạo điều kiện cho sự lan rộng hơn nữa của CNXH, và làm tăng uy tín của khối này trên toàn thế giới[29].
Tương tự, trong nửa đầu năm 1950 (tức là trước khi xảy ra chiến tranh Triều Tiên), Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Mỹ đều đồng thuận rằng: Đông Nam Á là khu vực có tầm quan trọng sống còn, Đông Dương là chìa khóa chiến lược trong kế hoạch ngăn chặn việc lan rộng của CNXH, và Pháp sẽ chịu trách nhiệm chính trong việc phòng thủ, với sự hỗ trợ vật chất ở mức độ khiêm tốn từ phía Hoa Kỳ. Trong hoàn cảnh đó, các tham mưu trưởng quân đội Mỹ nhấn mạnh hai điều:
1. Cần phải củng cố Đông Nam Á trước khi khối XHCN chiếm được các khu vực được xem là “sống còn”
2. Vì vẫn còn tiếc nuối về chiến thắng của Mao Trạch Đông ở Trung Quốc, họ cho rằng nếu củng cố được Đông Nam Á, phương Tây có thể giành lại thế chủ động ở Viễn Đông – tức là có thể gây sức ép trở lại với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa[30].
Những đánh giá như vậy được đưa ra trước cuộc chiến ở Cao Bằng (tháng 10/1950), nghĩa là vào thời điểm mà vị thế của quân viễn chinh Pháp còn tương đối vững chắc, các sĩ quan quân đội Mỹ vẫn còn tin tưởng rằng lực lượng này sẽ đảm đương nhiệm vụ ngăn chặn CNXH tại Đông Dương. Tuy nhiên, sau khi quân Pháp rút khỏi Hòa Bình (tháng 2/1952), những nghi ngờ bắt đầu xuất hiện. Tháng 3/1952, các Tham mưu trưởng quân đội Mỹ đã đặt câu hỏi với Bộ Ngoại giao rằng: Liệu Đông Nam Á có phải là khu vực thiết yếu đối với an ninh của Hoa Kỳ hay không? Một câu trả lời khẳng định hoặc phủ định sẽ dẫn đến việc xây dựng các kế hoạch quân sự hoàn toàn khác nhau. Paul Nitze, giám đốc Ban hoạch định chính sách, với sự ủng hộ của Ngoại trưởng Dean Acheson, đã trả lời họ rằng: nếu chi phí bảo vệ khu vực vượt quá một mức độ nhất định (không được xác định rõ) thì Hoa Kỳ cho rằng việc tiếp tục bảo vệ nơi này là vô ích[31].
Sự phân biệt do R.Blum và R.Dingman đưa ra là hợp lý và đáng lưu ý. Theo hai tác giả này, lục địa châu Á không nằm trong phạm vi phòng thủ sống còn của Hoa Kỳ mà là một phần trong chiến lược “răn đe” nhằm vào khối XHCN. Khu vực này không phải vùng thiết yếu cho an ninh nước Mỹ – không nhất thiết phải giữ bằng mọi giá. Nhưng đồng thời, nơi đây được xem như một “vành đai biên giới” của đế quốc Mỹ, và Mỹ mong muốn giữ khu vực này trong tầm ảnh hưởng của mình ở giới hạn chi phí chấp nhận được[32].
Hơn nữa, ngay trong nội bộ Đông Nam Á, các chiến lược gia Mỹ cũng phân biệt rõ các khu vực có tầm quan trọng khác nhau. Xét về tổng thể, toàn bộ tiểu lục địa này có chức năng tạo thành một khu vực kinh tế tích hợp và bổ trợ với Nhật Bản. Và theo chỉ thị NSC 124/2 thông qua vào tháng 6/1953, trong khu vực Đông Nam Á, hai nước có vai trò quan trọng đối với kinh tế Nhật Bản và việc gắn kết Nhật trong khối phương Tây chính là Malaysia và Indonesia. Quan điểm này được nhắc lại nguyên văn trong văn kiện NSC 5405, vẫn còn hiệu lực trong thời gian diễn ra Hội nghị Genève. Cuối cùng, theo một nghiên cứu do Hội đồng An ninh Quốc gia (NSC) tiến hành vào tháng 2 năm 1952, thì miền Bắc Việt Nam được coi là tuyến đầu của chiến lược ngăn chặn, trong khi eo đất Kra (biên giới phía Bắc của Malaysia do người Anh kiểm soát) là tuyến phòng thủ thứ hai vững chắc. Ở phía Nam eo đất này, không chỉ có Malaysia và Indonesia, mà còn có những căn cứ hải quân và không quân quan trọng, cùng với các tuyến liên lạc có giá trị chiến lược cao[33].
Tuy nhiên, vào mùa xuân năm 1954, người Anh vẫn kiểm soát vững chắc eo đất Kra, và tại Malaysia, họ đang giành ưu thế trước cuộc nổi dậy độc lập mang màu sắc XHCN địa phương. Về phía Thái Lan, Tổng thống Eisenhower đã cử tướng Donovan – cựu lãnh đạo cơ quan tình báo Mỹ trong Thế chiến thứ hai – làm đại sứ từ năm 1953. Kết quả là hoạt động tình báo Mỹ ở phía Tây Đông Dương được tăng cường đáng kể, quân đội Thái Lan cũng được gia tăng năng lực quân sự. Vì vậy, ngay cả khi toàn bộ Đông Dương trở thành một phần của khối XHCN, các “quân cờ domino” ở phía tây và phía nam Đông Dương chưa chắc đã sụp đổ.
Trong bối cảnh đó, cũng dễ hiểu khi chỉ có một người trong nhóm bốn nhân vật chủ chốt của chính quyền Eisenhower tham gia quyết định can thiệp quân sự tin rằng việc mất Bắc Kỳ sẽ kéo theo sự sụp đổ của toàn bộ Đông Nam Á – đó là tướng Radford. Cũng chính Radford, vẫn là người đơn độc trong quan điểm của mình, đề xuất tiến hành một cuộc chiến tranh hạt nhân phòng ngừa chống lại Trung Quốc – một hình thức ngăn chặn liều lĩnh và mạo hiểm nhất. Trong khi đó, như đã thấy, ngay từ tháng 2/1954, Bedell Smith đã đề xuất các biện pháp hướng đến việc chia cắt Đông Dương. Ngày 12 tháng 5, Dulles thừa nhận trước Thượng viện rằng việc bảo vệ Đông Nam Á mà không còn “Đông Dương” là điều hoàn toàn có thể thực hiện. Về phần Eisenhower, ông đã chấp nhận điều chỉnh chính sách của mình theo hướng này từ ngày 6/4[34].
Cuối cùng, ngay trong nội bộ Việt Nam – trung tâm quan tâm chính của người Mỹ tại Đông Dương – cũng cần phân biệt rõ giữa miền Nam và miền Bắc. Miền Bắc, với dân số quá đông, chỉ có giá trị chiến lược nhờ vị trí sát cạnh Trung Quốc. Trong khi đó, miền Nam xuất khẩu gạo và sở hữu căn cứ quân sự Cam Ranh. Vì vậy, một tháng trước Hội nghị Genève, Dulles đã có thể tuyên bố với các nghị sĩ Mỹ rằng: “Việc mất đồng bằng miền Bắc Việt Nam không khiến Hoa Kỳ mất đi các nguồn lực quan trọng, vì gạo mà Nhật tiêu thụ đến từ phía Nam của Đông Dương”. Và đó cũng chính là lập luận của Paul Reynaud[35].
Việc chấp nhận các vùng quân sự tập trung về một nơi ở Việt Nam cho phép Hoa Kỳ thực hiện chương trình ngăn chặn toàn cầu của mình với chi phí thấp nhất và rủi ro tối thiểu. Họ càng dễ dàng chọn giải pháp tiết kiệm này vì lúc đó, như L.Belb nhận xét, uy tín của Mỹ đang ở đỉnh cao: Hoa Kỳ vừa lật đổ Mossadegh ở Iran và Arbenz ở Guatemala, trong khi hiệp định đình chiến Triều Tiên mới được ký kết. Do đó, việc rút khỏi miền Bắc Việt Nam,vốn được biện minh bởi tình hình quân sự, sẽ không khiến khối XHCN nghĩ rằng phương Tây đang suy yếu hay có ý định hòa hoãn[36].
Mối quan tâm thể hiện cho khối XHCN thấy rằng Hoa Kỳ vẫn trung thành với chương trình ngăn chặn toàn cầu của mình cũng giải thích cho việc thay thế ảnh hưởng chính trị của Pháp tại Đông Dương (cụ thể là việc thực hiện chương trình độc lập hoàn toàn cho quốc gia này, cùng với việc loại bỏ những đặc quyền kinh tế của Pháp tại miền Nam Việt Nam) mà người Mỹ tiến hành sau Hội nghị Genève. Thật vậy, bản chỉ thị NSC 5429, đưa ra chính sách của Mỹ ở Viễn Đông sau hiệp định Genève, không nói gì về các hệ quả cụ thể của thỏa thuận này, mà chỉ nhấn mạnh đến việc mất uy tín của Hoa Kỳ do khối XHCN giành được lãnh thổ, vẻ ngoài ôn hòa của khối này giúp họ có thể thu hút nhiều quốc gia châu Á và việc Mỹ ủng hộ những kẻ thua cuộc. Dulles đồng tình với những phân tích này và thừa nhận rằng việc thành lập khối SEATO sẽ gắn uy tín của Hoa Kỳ với một khu vực khó kiểm soát, nơi tình hình đang không mấy sáng sủa. Tuy nhiên, Dulles kết luận rằng không làm gì cả sẽ đồng nghĩa với việc để mất lãnh thổ mà không chiến đấu, điều này không thể chấp nhận được[37].
Chính mong muốn khẳng định cam kết của Hoa Kỳ với chiến lược ngăn chặn toàn cầu cũng giải thích các biện pháp mà Kennedy đưa ra năm 1961, vốn là bước đầu của việc leo thang tại Việt Nam. Trước sự suy yếu của chế độ Diệm, việc phương Tây chấp nhận một Việt Nam trung lập có thể đã giúp ngăn chặn miền Nam – bao gồm Cam Ranh và vùng sản xuất lúa gạo – rơi vào tay khối XHCN. Tuy nhiên, bất kể khả năng thành công ra sao, đề xuất này do Thứ trưởng Ngoại giao Chester Bowles nêu ra đã không được Kennedy chấp thuận, và bối cảnh quốc tế khi đó giải thích cho quyết định của ông. Những quyết định này được đưa ra sau thất bại ở Vịnh Con Heo (Cuba); trong lúc việc trung lập hóa Lào chỉ được xem là thành công một nửa từ góc nhìn phương Tây; và trong bối cảnh căng thẳng gia tăng xung quanh vấn đề Berlin làm dấy lên nguy cơ xung đột hạt nhân. Kennedy cũng chú ý đến một bài phát biểu vào tháng 1/1961, trong đó Khrushchev đã hứa sẽ ủng hộ các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Trong hoàn cảnh đó, Tổng thống quyết định tạo ra một ví dụ điển hình tại miền Nam Việt Nam – nơi mà vị thế của Mỹ vẫn còn tương đối vững chắc. Thái độ khinh thường của Khrushchev đối với Kennedy tại hội nghị thượng đỉnh Vienna vào tháng 6/1961 cũng góp phần khiến Tổng thống thêm quyết tâm cứng rắn. Cũng cần lưu ý rằng vào năm 1961, người Mỹ đến để cứu chính người đại diện do họ dựng lên. Lúc này, họ không còn sợ rằng mình đang hành động vì lợi ích của Pháp nữa[38].
Bằng cách tài trợ cho Kế hoạch Navarre, chính quyền Eisenhower đã trao cho chiến lược ngăn chặn – tại nơi xảy ra xâm lược hay lật đổ, do Pháp thực hiện ở Đông Dương – một cơ hội cuối cùng. Tuy nhiên, sau thất bại tại Điện Biên Phủ, sự sụp đổ về mặt quân sự và mong muốn hòa bình khiến người Mỹ quyết định đặt Đông Dương, cũng như phần còn lại của châu Á, vào một chính sách “new look”, ít tương thích với lợi ích của Pháp tại bán đảo này.■ (Hết)
Césari Laurent[1]
Lê Hằng Nga (dịch)
Chú thích:
[1] Césari Laurent (1957) là nhà sử học người Pháp chuyên nghiên cứu về chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ từ năm 1945 – 1961. (ND)
[2] Dillon (Paris), điện tín ngày 14/5/1954, FRUS, XIII, 2, 1952 – 1954, tr.1566 – 1568; ghi chú của Reynaud: ghi chép viết tay “Indochine”, không đề ngày tháng, AN, 74AP39; ghi chú của Bidault trong nhật ký của P.Ely, 6/4/1954, SHAT, 1K233 (19)
[3] J. Laloy, ghi chú về đề xuất của phía Mỹ, 24/5/1954, AN, 457AP54, hồ sơ số 2; Dulles gửi Dillon, 26/5/1954. FRUS, XIII, 2, 1952-1954, tr 1618 – 1620
[4] G.Bidault (Genève), số 574 – 579, 31/5/1954, 45AP54, hồ sơ số 2.
[5] G.Bidault (Genève), số 536 – 538, 27/5/1954, AN, 457AP54, hồ sơ số 2; Dillon (Paris), điện tín ngày 31/5/1954, FRUS, XIII, 2, 1952-1954, tr.1642 – 1643.
[6] J. Laloy, ghi chú về đề xuất của phía Mỹ, 24/5/1954; tương tự, ghi chú cho Bộ trưởng, “Conversations franco – americaines”, 31/5/1954; Phái đoàn Pháp, Genève, ghi chú cho Tổng thống, 1/6/1954 (tất cả các tài liệu trên: AN, 457AP54, hồ sơ số 2)
[7] Dulles gửi Dillon, 15/5/1954. FRUS, XIII, 2, 1952 – 1954, tr. 1569 – 1571; Dulles gửi Dillon, 21/5/1954, cùng nguồn, tr. 1594 – 1595.
[8] J. Laloy, ghi chú về đề xuất của phía Mỹ, 24/5/1954; M. Schumann (Paris) gửi Bidault, số 762 – 765, 28/5/1954; Phái đoàn Pháp, Genève, ghi chú cho Tổng thống, 1/6/1954; G.Bidault (Genève), số 643-650, 5/6/1954 (tất cả các tài liệu trên: AN, 457AP54, hồ sơ số 2). Cuộc thảo luận của Smith – Bidault, Genève, 5/6/1954, FRUS, XVI, 1952 – 1954, tr. 1039-1040.
[9] Dillon (Paris), điện tín ngày 30/5/1954, FRUS, XIII, 2, 1952-1954, tr. 1639 – 1641.
[10] Ý kiến của các Tham mưu trưởng, chuyển tới Pleven ngày 5/5/1954, SHAT, 1K233 (39), hồ sơ số 300 – 01; Ủy ban Quốc phòng, 14 – 15 và 26/5/1954, AN, 74AP40; R.Offoy, ghi chú lưu ý cho Bidault, vấn đề về đường hướng của Việt Minh tại Hội nghị Genève, 5/6/1954, AN, 457AP53, hồ sơ số 4.
[11] G.Bidault (Genève), số 536-538, 27/5/1954, MAE, Đông Nam Á, 1944-1955, hồ sơ chung, 226; Dillon (Paris), điện tín ngày 28/5/1954, FRUS, XIII, 2, 1952 – 1954, tr. 1628 – 1630; R.Offoy, ghi chú cho J.Chauvel, “Tin tức về cuộc tấn công của Việt Minh vào vùng đồng bằng”, 31/5/1954, MAE, Đông Nam Á, 1944 – 1955, hồ sơ chung, 262.
[12] Ghi chú gửi Dillon (Paris), điện tín ngày 30/5/1954, FRUS, XIII, 2, 1952 – 1954, tr. 1639 – 1641; cuộc họp giữa Eisenhower – Dulles – Anderson – MacArthur – Cutler, 2/6/1954, FRUS, XII, 1, 1952 – 1954, tr. 529 – 531; cuộc thảo luận giữa Dulles – Spender – Munro, 4/6/1954, ibid., tr. 546 – 547.
[13] J. Laloy, ghi chú cho Bộ trưởng, “Conversations franco – americaines”, 31/5/1954, AN, 457AP54, hồ sơ số 2; Ước lượng Tình báo Quốc gia 10-3-54, 1/6/1954, FRUS, XIII, 2, 1952 – 1954, tr. 1652 – 1657; phiên họp Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ, 3/6/1954, FRUS, XII, 1, 1952 – 1954, tr. 532 – 537.
[14] Thảo luận giữa Dulles – Spender, 4/6/1954, FRUS, XII, 1, 1952 – 1954, tr. 537 – 539; Dulles gửi Dillon, 4/6/1954, PP, DOD, IX, tr. 530.
[15] Dillon (Paris), điện tín ngày 9/6/1954, FRUS, XIII, 2, 1952 – 1954, tr. 1670 – 1672; Dillons (Paris), điện tín ngày 11/6/1954, ibid, tr. 1682 – 1684; ghi chú cho Tổng thống về các cuộc thảo luận Pháp – Hoa Kỳ, 11/6/1954, AN, 457AP54, hồ sơ số 2; M. Schumann (Paris) gửi Đại sứ quán Pháp ở Washington, số 7970 – 7979, 11/6/1954, ibid.
[16] G. Bidault (Genève) gửi Đại sứ quán Pháp ở Washington, số 8163 – 8170, 18/6/1954, AN, 457AP54, hồ sơ số 1; thảo luận giữa Dulles – Bonnet, 16/6/1954, FRUS, XIII, 2, 1952 – 1954, tr. 1710 – 1713.
[17] Francois Joyaux, “Về những mối quan hệ Trung Quốc – Việt Minh trong năm 1950 – 1954”, trong Enjeu et puissances. Hommages a Jean Baptiste Duroselle, Paris, Nhà xuất bản Sorbonne, 1986, tr. 331 – 346; R. Offoy, ghi chú cho J. Chauvel, “Tin tức về cuộc tấn công của Việt Minh vào vùng đồng bằng”, 31/5/1954, MAE, Đông Nam Á, 1944 – 1955, hồ sơ chung, 262; R.Offoy, ghi chú lưu ý cho Bidault về đường hướng của Việt Minh tại hội nghị Genève, 5/6/1954, AN, 457AP55, hồ sơ số 4; J.Chauvel gửi G.Bidault, 12/6/1954, AN, 457AP54, hồ sơ số 1.
[18] Phiên họp của Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ, 14/1/1954, FRUS, XII, 1, 1952 – 1954, tr. 361 – 365, và FRUS, XIII, 1, 1952 – 1954, tr. 961 – 964; họp Ủy ban Bedell Smith bàn về Đông Dương, 29/1/1954, PP, Gravel, 1, tr. 443 – 447; Báo cáo của Lansdale, ibid, tr.573 – 583; Bedell Smith gửi Eisenhower, 11/3/1954, FRUS, XIII, 2, 1952 – 1954, tr. 1108 – 1116; Michael Charlton, Anthony Mocrieff, Many reasons why. The American involvement in Vietnam, Londres, Scolar Press, 1978, tr. 42.
[19] Townsend Hoopes, The devil and John Foster Dulles, Boston, Little, Brown, 1973, tr.251; Joseph B. Smith, Portrait of a cold warrrior, New York, Putman, 1976, tr.179.
[20] Bedell Smith (Genève), điện tín ngày 17/5/1954, FRUS, XVI, 1952 – 1954, tr. 828 – 829; thảo luận giữa Ngo Dinh Luyen – Bonsal, Genève, 19/5/1954, ibid, tr 859 – 862; Dulles gửi Phái đoàn Hoa Kỳ (Genève), 22/5/1954, ibid, tr. 892 – 894; Dulles gửi Bedell Smith, 5/6/1954, ibid, tr. 1044 – 1045.
[21] Thảo luận giữa Bedell Smith – Chauvel, Genève, 16/6/1954, FRUS, XVI, 1952 – 1954, tr. 1154 – 1155; Dulles gửi Phái đoàn Hoa Kỳ (Genève), 17/7/1954, ibid, tr. 1397 – 1398; rapport Lansdale, PP, Gravel, 1, tr. 1176 – 1178; Thảo luận giữa Chauvel – Johnson, Genève, 18/6/1954, ibid, tr.1176 – 1178; Dulles gửi Phái đoàn Hoa Kỳ (Genève), 16/7/1954, ibid, tr, 1397 – 1398; báo cáo của Lansdale, PP, Gravel, 1, tr. 573 – 583.
[22] Thảo luận giữa Dulles – Eden, Washington, 26/7/1954, FRUS, VI, 1, 1952 – 1954, tr, 1086 – 1094; thảo luận giữa Dulles và các cố vấn, 10/7/1954, FRUS, XII, 1, 1952 – 1954, tr. 614 – 615.
[23] Thảo luận giữa Dulles – Casey, 29/6/1954, FRUS, XII, 1, 1952 – 1954, tr. 583 – 588; thảo luận giữa Dulles, Casey, Munro, 30/6/1954, ibid, tr, 588 – 589, cuộc họp về Đông Nam Á, 24/7/1954, ibid, tr. 665 – 671, cuộc họp Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ, 12/8/1954 tr. 724 – 733.
[24] Thảo luận giữa Dulles – Casey, 29/6/1954, FRUS, XII, 1, 1952 – 1954, tr. 583 – 588; thảo luận giữa Dulles, Casey, Munro, 30/6/1954, ibid, tr, 588 – 589, cuộc họp Hội đồng An Ninh Quốc gia Hoa Kỳ, 24/11/1954, FRUS, II, 1952 – 1954, tr. 787 – 802.
[25] John Lewis Gaddis, Strategies of containment, New York, Nhà xuất bản Đại học Oxford, 1982, chương 5
[26] NSC 5429, 4/8/1954, FRUS, XII, 1, 1952 – 1954, tr. 693 – 703; cuộc họp của NSC, 12/8/1954, ibid, tr. 724 – 733; Dự thảo bức điện chung của Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ gửi Heath và O’Daniel (tại Sài Gòn), ngày 21/10/154, PP, DOD, X, tr.783 – 788
[27] Richard H. Immerman, “Les intérêts américains en Indochine (1941 – 1954)”, Denise Artaud, Laurence Kaplan, Dien Bien Phu. L’Alliance alantique et la défense du Sud-Est asiatique, Lyon, La Manufacture, 1989, tr. 23 – 60
[28] Robert M. Blum, Drawing the line. The origin of American containment policy in East Asia, New York, Norton, 1982; Melvyn P. Leffler, “The American conception of national security and the beginnings of the cold war, 1945 – 1948”, American Historical Review, 89 (2), 4/1984, tr. 346 – 400
[29] Roger Dingman “Strategic planning and the policy process. American plans for war in East Asia, 1945-1950”, Naval War College Review, 32 (6), 11-12/1979, tr. 4-21: Ủy ban khảo sát chiến lược chung của Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân, 17/11/1950, FRUS, VI, 1950, tr. 949-953
[30] Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân, 10/4/1950, PP, DOD, VIII, tr. 308 – 310; lập trường chung của Bộ Ngoại giao và Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân, 28/4/1950, FRUS, III, 1950, tr.1001 – 1006; Đông Nam Á, Tham mưu trưởng liên quân gửi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, 2/5/1950, PP, DOD, VIII, tr.318 – 320; thảo luận giữa Acheson – Schumann, Paris, 8/5/1950, FRUS, III, 1950, tr. 1007 – 1013; Biên bản nhất trí ba bên về Đông Nam Á, London, 22/5/1950, ibid, tr. 1082 – 1085
[31] Cuộc họp Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ – Hội đồng Tham mưu trưởng, 5/3/1952, FRUS, XII, 1, 1952 – 1954, tr. 55 – 68; Cuộc họp của NSC, 5/3/1952, ibid, tr. 69 – 75
[32] Robert Blum và Roger Dingman, từ trang 127 và 128 của: Waldo Heinrichs, “Summary of discussion”, trong Dorothy Borg, Waldo Heinrichs, Uncertain years. Chinese – American relations, 1947 – 1950, New York, nhà xuất bản Đại học Columbia, 1980, tr. 119 – 128
[33] William S. Borden, The Pacific alliance. United States foreign economic policy and Japanese trade recovery, 1947-1956, Madison, Nhà xuất bản Đại học Wisconsin, 1984; Michael Schaller, The American occupation of Japan. The origins of the cold war in Asia, New York, nhà xuất bản Đại học Oxford, 1985; phụ lục của NSC 124, 13/2/1952, PP, Gravel, I, tr. 375-381; NSC 124/2, 25/6/1952, FRUS, XII, 1, 1952-1954, tr. 125-134; NSC 5405, 16/1/1954, ibid, tr. 366-381
[34] Ủy ban Bedell Smith về Đông Dương, 29/1/1954, FRUS, XIII, 1, 1952 – 1954, tr. 1002 – 1006 (Radford); cuộc họp của NSC, 6/4/1954, ibid, tr. 1250 – 1265 (Eisenhower); cuộc họp của Ủy ban Đối ngoại Thượng viện, 12/5/1954, SFRC, VI, tr.274 – 275 (Dulles)
[35] “Tóm tắt bài phát biểu của Smith gửi Tổng thống và nhóm Quốc hội lưỡng đảng, 8:30 sáng, 23/6/1954”, FRUS, XIII, 2, 1952 – 1954, tr. 1730 – 1733 (trích tr. 1733); P.Reynaud gửi J. Laniel, 8/6/1954, AN, 74AP38
[36] Leslie H.Gelb, Richard K. Betts, The irony of Vietnam. The system worked, Washington, The Brookings Institution, 1979, tr.70 – 71
[37] Thảo luận giữa Dulles – Eden, Washington, 26/6/2954, FRUS, VI, 1, 1952 – 1954, tr. 1086 – 1094; NSC 5429, 4/8/1954, FRUS, XII, 1, 1952 – 1954, tr. 696 – 703; thảo luận giữa Eisenhower – Dulles, 17/8/1954, ibid, tr.735, cuộc họp của NSC, 21/12/1954, FRUS, II, 1952 – 1954, tr. 832 – 844
[38] I. H. Gelb, R. K. Betts, op, cit, tr. 70 – 71 và 74; PP, Gravel, II, chương 1.