
Ngay sau chiến thắng của nhân dân ta ở Điện Biên Phủ, Pháp và Mỹ bước vào một ván cờ ngoại giao mang tính quyết định trong bối cảnh diễn ra Hội nghị Genève và cục diện tại Đông Dương chuyển sang tình thế mới. Tạp chí Phương Đông giới thiệu bản dịch bài viết “Nguy cơ can thiệp quân sự từ Hoa Kỳ trong giai đoạn đàm phán Hội nghị Genève và chiến lược của quốc gia này (1954)” của nhà sử học Césari Laurent phân tích chi tiết tình hình, đăng trên tạp chí “Vingtième Siècle, revue d’histoire” số 23, xuất bản năm 1989.
Ngay sau ngày Điện Biên Phủ sụp đổ, qua nhiều cuộc thương lượng tại Genève, người Mỹ yêu cầu Pháp chấp nhận họ can thiệp quân sự tại Đông Dương. Một “chiêu trò Gascon[2]” chăng?, Césari Laurent tự hỏi, khi ông chỉ ra nội dung thực sự của những cuộc thảo luận ấy lần đầu tiên. Đó là một cú hích nhỏ giúp người Pháp gây áp lực trong tiến trình đàm phán? Hay là một nước cờ do Ngoại trưởng Mỹ Foster Dulles sắp đặt để chuẩn bị thay thế ảnh hưởng của Pháp? Dù kế hoạch đó không được thực hiện, nó vẫn cho thấy sự khác biệt sâu sắc trong quan điểm giữa một cường quốc thực dân đang dần tàn mà ưu tiên hàng đầu là bảo vệ Liên hiệp Pháp; với Hoa Kỳ, khi ấy đang có uy tín quốc tế ở đỉnh cao, coi Đông Dương là vấn đề cốt lõi trong chiến lược ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản.
Tháng 4 năm 1954, khi Điện Biên Phủ đang bị vây hãm, Pháp và Mỹ đã bàn bạc về khả năng tiến hành một cuộc ném bom quy mô lớn quanh khu vực tập trung quân Pháp. Cuộc đàm phán đó chẳng đi tới kết quả nào, Điện Biên Phủ thất thủ ngày 7/5, đúng vào thời điểm Hội nghị về vấn đề Đông Dương khai mạc tại Genève. Trong suốt hội nghị, các chính phủ của Laniel (Pháp) và Eisenhower (Mỹ) lại tiếp tục đề cập đến khả năng Hoa Kỳ tham chiến, nhưng lần này không còn để giải cứu Điện Biên Phủ, mà nhằm giành chiến thắng dứt điểm trước Việt Minh. Bài viết này đề cập đến cuộc đàm phán lần thứ hai này giữa Pháp và Mỹ.
Các cuộc đàm phán có thể được xem xét dưới nhiều góc độ. Về mặt nội bộ chính trị của Pháp, chúng dẫn tới sự sụp đổ của Chính phủ Laniel ngày 12/6, và Mendès France lên nắm quyền. Thật vậy, dù nội dung chính xác của những cuộc đàm phán này còn chưa được công bố rõ, nhưng việc chúng tồn tại không còn là bí mật: một số tờ báo của Mỹ (New York Times) và các báo phổ biến ở châu Âu (Herald Tribune) đã đưa tin vào ngày 15/5. Trước một Quốc hội Pháp kiên quyết muốn Hội nghị Genève kết thúc chiến tranh ở Đông Dương, Mendès France đã giành được một lợi thế quyết định khi cáo buộc Bidault từ chối đàm phán với Việt Minh và tìm cách kéo Hoa Kỳ vào cuộc chiến.
Mặt khác, không có gì đảm bảo rằng lời đe dọa từ phía Mỹ lại khiến các nhà ngoại giao thuộc khối xã hội chủ nghĩa trở nên mềm mỏng hơn. Thực tế, Việt Minh chưa bao giờ chấp nhận phương án chia vùng đóng quân kiểu “da báo”, vốn là quan điểm ban đầu của Pháp nhằm đan xen các vùng kiểm soát của hai bên. Về thỏa thuận giữa Pháp và Việt Minh, các cuộc đàm phán đang là bí mật, nội dung dựa trên việc phân chia các khu tập kết chung, liền một dải, chia đất nước thành các phần rõ rệt; kèm thêm việc tìm ra tiếng nói chung giữa phái đoàn Pháp và Trung Quốc. Hầu hết các tiến triển đó diễn ra trong nửa đầu tháng 6, thời điểm mà mối đe dọa can thiệp của Mỹ đã nhanh chóng mất đi trọng lượng thực tế.
Người ta cũng có thể xem sự kiện này như một dấu hiệu thể hiện tình trạng quan hệ Pháp – Mỹ vào thời kỳ cuối của cuộc chiến tại Đông Dương, và đây cũng là góc nhìn trong bài viết này. Từ đó, dẫn tới việc đặt câu hỏi về ý đồ của Bidault: liệu ông ta có thực sự muốn kéo dài chiến tranh vô thời hạn để tránh việc tập trung các vùng kiểm soát của Việt Minh hay chỉ đơn giản là muốn nhận được một lời đe dọa từ phía Mỹ để các nhà đàm phán trong khối chủ nghĩa xã hội từ bỏ ý định buộc Pháp phải đầu hàng sau thất bại ở Điện Biên Phủ? Trong khi Eisenhower và Dulles đã đặt ra những điều kiện mà họ biết là phía Pháp không thể chấp nhận được, và nếu quả thật Đông Dương là “chìa khóa then chốt” trong chiến lược ngăn chặn ảnh hưởng khối xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Đông Nam Á như họ vẫn tuyên bố, thì làm sao để giải thích thái độ của họ?
Những bất đồng ban đầu về khả năng chia cắt Việt Nam
Khi Hội nghị Genève bắt đầu, ngày 26/4/1954, cả Pháp và Mỹ đều phản đối việc chia vùng rõ ràng ở Việt Nam. Tài liệu chỉ đạo NSC 5405 của Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ, lúc đó vẫn còn hiệu lực, cũng loại trừ khả năng thành lập một chính phủ liên hiệp có sự tham gia của Việt Minh, và không chấp nhận bất kỳ kết cục nào cho cuộc chiến ngoại trừ thành công của “kế hoạch Navarre”. Tài liệu này cho phép Hoa Kỳ can thiệp quân sự vào Đông Dương nhưng các điều kiện lại rất mơ hồ: chỉ cần viện trợ quân sự của Trung Quốc cho Việt Minh đạt mức mà theo đánh giá của phương Tây là đe dọa sự tồn tại của miền Bắc Việt Nam thì việc tấn công Trung Quốc có thể thực hiện. Nhưng sau thất bại ở Điện Biên Phủ, việc giữ vùng Bắc Việt trong khối phương Tây đã trở thành điều cấp thiết, trong khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa lại gia tăng viện trợ cho Việt Minh[3].
Tuy nhiên, văn kiện NSC 5405 không hẳn là một chính sách đã ấn định, mà đúng hơn, nó mô tả một giải pháp cho vấn đề ở Đông Dương phù hợp nhất với nguyện vọng từ phía Mỹ. Thật vậy, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Bedell Smith, người được Eisenhower giao nhiệm vụ chủ trì một ủy ban về Đông Dương, tuyên bố vào ngày 16/2 tại Thượng viện rằng chính sách của Hoa Kỳ đối với khu vực này vẫn chưa xác định rõ ràng. Smith đã đề cập đến khả năng hình thành một hiệp ước phòng thủ bao gồm: Thái Lan, Miến Điện, và có thể cả Campuchia cùng một phần của Việt Nam. Nhưng nếu ở Việt Nam các vùng chiếm đóng tập trung lại một nơi – một điều ngầm hiểu trong dự án này – xảy ra trong tương lai gần, thì theo Smith, kết quả ở khu vực Đông Nam Á sẽ là một thảm họa, bởi việc chuẩn bị cho hiệp ước phòng thủ ấy còn rất sơ khai[4].
Cũng theo hướng đó, bản báo cáo của Ủy ban Bedell Smith, được Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ xem xét vào ngày 6/4/1954, có trích dẫn NSC 5405 và khuyến nghị sử dụng mọi biện pháp gây áp lực kinh tế và chính trị để giữ cho Pháp tiếp tục chiến tranh, ngay cả khi điều ấy có thể đe dọa sự tồn tại của Chính phủ Laniel và khiến việc phê chuẩn Cộng đồng Quốc phòng Châu Âu gặp khó khăn. Tuy vậy, báo cáo cũng khuyến nghị:
– Ngay lập tức tăng cường sự hợp tác giữa Campuchia và Thái Lan;
– Thống nhất với Vương quốc Anh về các biện pháp nhằm giữ Malaysia, Miến Điện và Thái Lan trong khối phương Tây;
– Về lâu dài, chuẩn bị một hiệp ước an ninh vùng viễn Đông, bao gồm cả những cường quốc châu Âu có thuộc địa ở Thái Bình Dương.
Như vậy, vào đúng thời điểm Hoa Kỳ tuyên bố không thể chấp nhận việc toàn bộ hay một phần Việt Nam rơi vào khối XHCN, thì họ cũng đồng thời chuẩn bị sẵn những biện pháp, để ngay khi việc đó xảy ra, họ có thể ngăn chặn những thắng lợi tiếp theo của phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á[5].
Vì lẽ đó, từ phía Hoa Kỳ, việc can thiệp để ngăn Việt Nam thuộc quyền kiểm soát của Chính phủ Hồ Chí Minh chỉ là một phương án, không phải một quyết định được đưa ra chắc chắn. Lựa chọn này càng không chắc chắn vì Eisenhower được bầu lên với khẩu hiệu đưa các binh sĩ ở Triều Tiên về nước. Mà rõ ràng, nhiều nghị sĩ quan trọng trong Quốc hội Mỹ thuộc cả hai đảng, khi được Dulles tham khảo ý kiến không chính thức vào ngày 3/4, đã kiên quyết phản đối việc Mỹ tham gia vào một cuộc chiến tranh kiểu Triều Tiên thêm lần nữa, tức là cuộc chiến mà Mỹ phải cung cấp đến 90% quân số chiến đấu. Về phía lục quân Mỹ, họ cũng khẳng định rằng không thể giành chiến thắng ở Đông Dương chỉ với hải quân và không quân. Eisenhower và Dulles đều nhận thức rõ những giới hạn đối với quyền tự do hành động của họ, do Quốc hội từ chối trao quyền hành động tùy ý cho Tổng thống, và do nhu cầu phải dựa vào các đồng minh của Mỹ – trước hết là Pháp và các Quốc gia liên kết – để có được lực lượng bộ binh cần thiết cho cuộc can thiệp[6].
Cuối cùng, vấn đề bất đồng giữa Pháp và Mỹ về mục tiêu chiến tranh cũng góp phần làm suy yếu khả năng Mỹ tự động can thiệp. Eisenhower loại trừ khả năng Mỹ đơn phương can thiệp, vì điều đó khiến Hoa Kỳ đồng nhất với chủ nghĩa thực dân Pháp, từ đó làm giảm uy tín chính trị của Mỹ tại châu Á. Theo đó, bất kỳ cuộc can thiệp nào chỉ có thể diễn ra trong khuôn khổ một liên minh, gồm: Pháp, các quốc gia liên kết, Thái Lan, Philippines, Úc, New Zealand, và nếu có thể, cả sự đồng thuận từ Vương quốc Anh. Dulles cũng chia sẻ quan điểm này, và nghi ngờ người Pháp – lực lượng mà ông biết đã quá mệt mỏi vì chiến tranh – đang tìm kiếm một hình thức đầu hàng trá hình tại Genève. Vì vậy, ông không muốn cung cấp hỗ trợ quân sự cho Pháp, trừ khi Pháp sẵn sàng tiếp tục chiến đấu đến cùng để giành chiến thắng. Nếu không, Hoa Kỳ sẽ rơi vào tình thế trớ trêu: Họ đã biến Đông Dương thành biểu tượng cho Chiến tranh Lạnh rồi sau đó rút lui, điều này sẽ dẫn đến thất bại nghiêm trọng trong uy tín quốc tế. Thậm chí, vào ngay hôm trước khi chính thức đề xuất can thiệp với Đại sứ Pháp Henri Bonnet, Dulles vẫn còn do dự và bày tỏ sự lưỡng lự của mình với Eisenhower về việc thực hiện bước đi này[7].
Bidault, cũng như Dulles, mong muốn tránh việc các vùng chiếm đóng quy về một nơi, nhưng vì những lý do khác với người Mỹ. Đối với Hoa Kỳ, rốt cuộc, điều không thể chấp nhận được là việc một vùng lãnh thổ mới rơi vào tay cộng sản, bất kể nó ở đâu trên thế giới. Ngược lại, theo quan điểm của Bidault, chính việc mất miền Bắc Việt Nam mới là điều đe dọa sự tồn tại của Liên hiệp Pháp. Ngày 23/2/1954, trước Hội đồng Tối cao của Liên hiệp Pháp. Bidault cam kết chỉ đàm phán với đối phương sau khi đạt được một thỏa thuận “toàn diện và định sẵn” với chính quyền Quốc gia Việt Nam. Ông hy vọng nhờ vậy sẽ giành được sự gắn bó thực sự của Quốc gia Việt Nam với Liên hiệp Pháp theo mô hình liên bang, quy định bởi Hiến pháp năm 1946, nhưng ngày càng bị các thành phần chống cộng người Việt chất vấn và phản đối. Bidault cũng lo ngại rằng nếu Pháp không tham khảo ý kiến của chính quyền Quốc gia Việt Nam trước Hội nghị Genève thì bên này có thể tiếp cận với Việt Minh trong một liên minh chống Pháp, với mục tiêu tránh để đất nước chia cắt. Đối với ông, mặt tiền Thái Bình Dương là “thiết yếu cho vị thế của một cường quốc lớn”. Hơn nữa, nếu Pháp “buông bỏ Đông Dương” thì toàn bộ phần còn lại của đế quốc thuộc địa cũng sẽ “buông bỏ nước Pháp”. Chính từ đó mà bản công hàm do Bảo Đại bị thúc ép ký ngày 6/5/1954 khẳng định rằng: “Không có gì đi ngược lại ý định của Chính phủ Pháp hơn việc chuẩn bị thành lập – làm tổn hại đến sự thống nhất của Việt Nam – hai quốc gia có chủ quyền quốc tế riêng biệt”[8].
Tuy nhiên, có thể nghi ngờ việc Bidault sẵn sàng chấp nhận một cuộc can thiệp của Mỹ trong bất kỳ điều kiện nào chỉ để tránh chia cắt. Ngày 11/5, ông đánh giá tích cực đề xuất của Việt Minh (đưa ra ngày hôm trước) về việc tạm thời phân chia quyền quản lý Việt Nam giữa chính quyền Bảo Đại và Việt Minh, dựa trên các vùng chiếm đóng quân hiện có, và thừa nhận rằng kế hoạch này hàm chứa nguy cơ dẫn đến việc chia cắt. Cũng trong ngày hôm đó, ông đề nghị chính phủ thăm dò ý định của Hoa Kỳ, trong trường hợp hội nghị thất bại, dù Pháp có muốn tiếp tục chiến tranh sau đó hay không. Cuối cùng, ngay từ ngày 30/4, ông đã nói với Dulles rằng những lời đe dọa kèm theo khả năng can thiệp quân sự từ phía Mỹ chỉ nhằm củng cố vị thế của Pháp. Kết luận rằng Bidault, cũng như Thứ trưởng Ngoại giao Maurice Schumann, Thủ tướng Laniel và Tổng Tham mưu trưởng liên quân – Tướng Ely, đều mong muốn tránh việc tập trung các vùng kiểm soát xảy ra, nhưng không cần dùng tới cứu viện, và điều kiện là nhận được sự đảm bảo quốc tế bảo hộ các nước Campuchia, Lào, và miền Nam Việt Nam[9].
Phần lớn những người trong nội các thể hiện thái độ không bằng lòng với việc theo đuổi các chiến dịch quân sự. Rene Pleven (Bộ Quốc phòng) tỏ ý nhẹ nhàng hơn với việc chia cắt tại vĩ tuyến 18. Paul Reynaud (Hội đồng Bộ trưởng Pháp) đánh giá rằng miền Bắc Việt Nam sẽ là nấm mồ của các đội quân viễn chinh, và đề xuất nên rút về Nam Kỳ, nơi giàu có bậc nhất của Việt Nam và cũng là nơi có thiện cảm nhất với nước Pháp rồi để mặc cho Mỹ tự mình tiếp tục chiến tranh ở đây nếu họ muốn. Paul Reynaud và Edgar Faure (Bộ Tài chính) đều từ chối tiếp tục chiến dịch nếu Hoa Kỳ đồng hành, ngay cả khi Hội nghị Genève không thành công[10].
Về vấn đề chia cắt, các lập trường trong Chính phủ Pháp trải dài từ tán thành đầy nhiệt huyết đến thái độ chấp thuận đó là giải pháp cuối cùng. Những thông tin cơ quan tình báo Pháp cung cấp vào đầu hội nghị cũng không khuyến khích việc kiên quyết từ chối chia cắt trong thời gian dài. Họ cho biết, một mặt, Vương quốc Anh, Liên Xô và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đều đặt mục tiêu chia cắt Việt Nam tại Genève, trong khi phía Việt Minh còn lưỡng lự giữa phương án chia cắt và thành lập chính phủ liên hiệp; mặt khác, khối XHCN đặc biệt lo ngại khả năng Mỹ can thiệp vào Đông Dương. Bằng cách khua lên mối đe dọa về sức mạnh của Mỹ, Pháp có thể đạt được một phương án chia cắt được tất cả các bên chấp thuận – như một giải pháp “ít nhất có thể chấp nhận được”. Tuy nhiên, tại Paris cũng như Washington, việc sử dụng sức mạnh đó không hề được coi là điều tất yếu[11].
Đề nghị từ phía Mỹ
Sáng kiến đề nghị can thiệp đến từ Dulles. Ông ta đã nêu ra khả năng này với Bidault vào ngày 3/5, ngay trước khi rời Genève, và triệu tập Đại sứ Bonnet vào ngày 8/5 – tức ngay sau khi Điện Biên Phủ thất thủ – để chính thức trình bày đề xuất. Ngay từ đầu, Dulles đã cảnh báo rằng đề xuất này sẽ kèm theo những điều kiện cụ thể[12].
Bề ngoài có vẻ thẳng thắn, nhưng hành động của Dulles thực chất nhằm thăm dò ý muốn của Pháp trong việc tiếp tục cuộc chiến, từ đó Mỹ sẽ quyết định đường hướng hành động của mình. Eisenhower, Dulles và các Tham mưu trưởng quân đội Mỹ lo ngại rằng khối XHCN sẽ kéo dài đàm phán tại Genève để Việt Minh có thời gian tái bố trí lực lượng ở Bắc Kỳ, rồi phát động cuộc tấn công cuối cùng. Dulles xem đề xuất của mình như một giải pháp thay thế cho đàm phán. Nếu chấp nhận các điều kiện nghiêm ngặt của Mỹ, Pháp sẽ chứng tỏ tinh thần chiến đấu – yếu tố giúp mang lại chiến thắng. Ngược lại, nếu Pháp ngay lập tức từ chối, các nhà đàm phán của họ tại Genève, vẫn còn giữ hi vọng vào sự can thiệp của Mỹ, sẽ không bị ép buộc phải chấp nhận một lệnh ngừng bắn tuyệt vọng, thiếu bảo đảm quốc tế[13].
Kế hoạch của Dulles mang tính mơ hồ. Xét về cá nhân, Ngoại trưởng Mỹ có lẽ thực sự muốn can thiệp. Nhưng phía Pháp cũng có thể lợi dụng đề xuất này như một đòn tâm lý nhằm buộc các đoàn đàm phán khối XHCN phải nhượng bộ ở Genève. Dulles chỉ đồng ý can thiệp nếu điều đó đảm bảo chiến thắng, và ông biết rõ tình hình quân sự ở miền Bắc Việt Nam đang xấu đi nhanh chóng. Để làm cho Pháp hiểu rõ rằng can thiệp quân sự là nhằm kết thúc đàm phán, Dulles lẽ ra nên đặt ra thời hạn chót để họ đưa ra câu trả lời. Ngược lại, nếu mục đích chỉ là hù dọa khối XHCN, hoặc giúp Pháp sau khi thừa nhận thất bại tại Genève, thì ông lẽ ra nên để Pháp tự lựa chọn thời điểm yêu cầu Mỹ can thiệp.
Tuy nhiên, Dulles hiểu rằng Pháp không chấp nhận một đề xuất kèm thời hạn chót, và càng không thể tự mình khơi mào phá vỡ đàm phán tại Genève. Điều đó, như cả Dulles và Bidault đều biết, sẽ dẫn đến sự sụp đổ của nội các Laniel. Vì vậy, Dulles đã trình bày đề xuất với Đại sứ Bonnet theo cách mập mờ, như thể đó là phương án mà Pháp có thể tận dụng sau khi thấy rõ sự bế tắc trong việc thay đổi điều kiện của phía XHCN tại bàn đàm phán. Ở dạng này, đề xuất của Mỹ trở thành giải pháp dự phòng mà Bidault mong muốn, trong trường hợp hội nghị thất bại. Laniel đồng ý xem xét các điều kiện mà Mỹ đưa ra, vốn đã được Eisenhower phê chuẩn và được gửi cho ông cũng như Thứ trưởng Ngoại giao Maurice Schumann vào ngày 14/5. Do Bidault vẫn còn ở Genève, Laniel và Schumann đã chủ trì phần lớn các cuộc đàm phán về can thiệp tại Paris cùng đại sứ Mỹ Dillon[14].
Những điều kiện Mỹ đưa ra gồm:
1. Một yêu cầu trang trọng (trong trường hợp của Pháp là dưới hình thức một cuộc bỏ phiếu tại quốc hội) nhằm đề nghị Hoa Kỳ can thiệp, do Pháp và các quốc gia liên kết cùng đưa ra.
2. Thái Lan và Philippines tham gia vào chiến dịch can thiệp; khả năng cao có sự tham gia của Úc và New Zealand ; Vương quốc Anh chấp thuận chiến dịch này.
3. Nhanh chóng trình bày chiến dịch trước Liên hợp quốc, chẳng hạn, dưới hình thức một kiến nghị do Thái Lan, Campuchia và Lào đệ trình, yêu cầu thành lập một ủy ban quan sát, với lập luận rằng các nước này đang bị đe dọa bởi sự xâm nhập.
4. Một cam kết từ phía Pháp đảm bảo nền độc lập hoàn toàn cho các quốc gia liên kết, bao gồm quyền họ được rút khỏi Liên hiệp Pháp bất cứ lúc nào, chỉ cần theo ý muốn của riêng họ.
5. Cam kết của Pháp sẽ không rút quân trước khi chiến dịch can thiệp kết thúc, để các lực lượng Mỹ – chủ yếu là không quân và hải quân – có thể bổ sung vào hệ thống quân sự hiện có của Pháp, chứ không thay thế nó.
6. Một thỏa thuận về việc huấn luyện lực lượng bản địa, do Hoa Kỳ đảm nhận, cũng như về tổ chức bộ chỉ huy. (Hoa Kỳ dự kiến sẽ giữ lại cho Pháp vị trí Tổng tư lệnh, nhưng dành quyền chỉ huy các lực lượng không quân và hải quân – vốn là mũi nhọn tấn công chính. Eisenhower sẵn sàng để Pháp giữ các vị trí có tính tượng trưng và thể diện, miễn là quyền lực nằm trong tay Hoa Kỳ)[15]
Các điều kiện này phản ánh sự nghi ngờ của Mỹ đối với Pháp, vốn bị tình nghi là muốn rút khỏi cuộc chiến sau khi lôi kéo đồng minh vào, và nhất là cho thấy mối bận tâm sâu sắc của Mỹ trong việc bảo vệ thể diện quốc gia. Họ muốn – một mặt tiến hành chiến dịch cho đến khi chiến thắng, mặt khác định hình lại tính chất cuộc chiến như một phần cuộc chiến chống chủ nghĩa cộng sản, xóa bỏ tính thực dân của Pháp. Việc viện dẫn Liên hợp quốc (LHQ) sẽ giúp Mỹ tạo ra sự tương đồng giữa cuộc chiến ở Đông Dương và chiến tranh Triều Tiên, cả hai đều được trình bày như những phản ứng chính đáng của cộng đồng quốc tế trước các cuộc xâm lược vô cớ. Liên quan tới điểm này, cần lưu ý rằng ngoại giao Mỹ đã phải gây sức ép với Thái Lan để nước này nộp đơn khiếu nại lên LHQ. Thật vậy, khi Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Bedell Smith gặp Ngoại trưởng Thái Lan tại Genève vào ngày 15/5, ông không thấy có bất kỳ ý định nào từ phía Thái Lan về việc kêu gọi LHQ can thiệp. Smith liền gợi ý đúng lúc rằng Hoa Kỳ đang cân nhắc việc thiết lập các căn cứ quân sự tại Thái Lan. Trước thông tin đó, vị bộ trưởng Thái mềm mỏng hẳn và hứa sẽ tham khảo ý kiến chính phủ mình[16].
Cuối cùng, người Mỹ hoàn toàn dự định rằng nếu cần thiết sẽ mở rộng cuộc chiến sang Trung Quốc. Một khi được Quốc hội Pháp cam kết tham gia cho tới khi giành chiến thắng cuối cùng, sẽ không thể tránh việc nước Pháp cuốn vào việc mở rộng này. Kế hoạch chiến tranh được các Tổng tham mưu trưởng Hoa Kỳ trình lên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng vào ngày 20/5, dự kiến sử dụng bom nguyên tử ở Đông Dương, hoàn toàn dựa trên các nhu cầu quân sự chứ không phải vì lý do chính trị. Các chiến dịch trên bộ sẽ được giao hoàn toàn cho quân đội của các quốc gia liên kết và quân viễn chinh Pháp[17].
Một khuyến nghị như vậy xuất phát từ học thuyết trả đũa ồ ạt, quy định theo chỉ thị NSC 162/2 ngày 30/10/1953 của Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ (NSC). Chiến lược này nhằm giảm bớt ngân sách quốc phòng của Hoa Kỳ, dựa trên nguyên tắc sử dụng lực lượng Mỹ như một lực lượng dự bị trung tâm cơ động, sở hữu bom nguyên tử như một vũ khí chiến thuật tương đương với vũ khí thông thường. Các đồng minh có trách nhiệm tăng cường hệ thống phòng thủ riêng của họ và cung cấp quân bộ binh. Ngày 9/12/1953, các Tổng tham mưu trưởng đã khuyến nghị chuẩn bị các kế hoạch chiến tranh dựa trên lời đe dọa trả đũa ồ ạt nhằm vào Liên Xô hoặc Trung Quốc trong trường hợp bị tấn công nghiêm trọng, cũng như việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật hoàn toàn dựa trên nhu cầu quân sự, trong cả trường hợp xung đột cục bộ hay chiến tranh tổng lực. Vì vậy, khuyến nghị ngày 20/5 hoàn toàn phù hợp với học thuyết quân sự chính thức của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, nó cũng hàm chứa một nguy cơ lớn, và tất cả các cơ quan tình báo Mỹ đồng tình: khả năng Trung Quốc sẽ công khai can thiệp ở Đông Dương[18].
Trong trường hợp viễn cảnh này xảy ra, theo chỉ thị của NSC, Eisenhower và Dulles đã chuẩn bị các đợt oanh tạc nhắm vào các sân bay và tuyến liên lạc nằm trong lãnh thổ Trung Quốc, vốn được cho là đang tiếp tế cho hành động gây hấn; thậm chí là một cuộc đổ bộ lên đảo Hải Nam, vốn sẽ được chuyển giao cho phe Trung Hoa Dân Quốc. Người ta thừa nhận rằng những chiến dịch này mang nguy cơ leo thang thành một cuộc chiến tranh tổng lực[19].
Nếu Eisenhower và Dulles hoàn toàn không có ý định chuyển sang một cuộc xung đột toàn cầu ngay từ đầu thì các Tổng tham mưu trưởng của họ lại ít thận trọng hơn. Họ cho rằng Đông Dương không có các mục tiêu quân sự quyết định, nên không muốn điều động quá nhiều lực lượng Mỹ tới đây. Nhưng họ cũng tin rằng nếu Đông Dương trở thành một phần của khối XHCN, thì về lâu dài toàn bộ Đông Nam Á sẽ đi theo hướng này, thông qua sự thỏa hiệp của các chính phủ địa phương. Với giả định Đông Dương tuột khỏi tay, ngày 21/5, họ đề xuất rằng trong tương lai, bất kỳ bước tiến mới nào của phe cộng sản ở Đông Nam Á đều phải đáp trả bằng các cuộc tấn công vào tiềm lực quân sự của Trung Quốc. Nói cách khác, họ ủng hộ một chiến lược chủ động tấn công chống lại Trung Quốc. Về phần mình, Đô đốc Radford, Tổng tham mưu trưởng liên quân, thậm chí còn đề xuất phát động một cuộc chiến tranh nguyên tử phủ đầu chống lại Trung Quốc và coi đây là dịp lý tưởng để thực hiện điều đó[20].
Biên bản ghi nhớ ngày 21/5 đơn thuần là sự phát triển triệt để của học thuyết trả đũa ồ ạt. Nhưng vì nhận thức rõ việc rò rỉ kế hoạch này có thể khiến các đồng minh của Hoa Kỳ, cả ở châu Á lẫn châu Âu, lo ngại sâu sắc nên vào ngày 28/5, Tổng thống Eisenhower và Ngoại trưởng Dulles đã quyết liệt nhấn mạnh với các tướng lĩnh của mình rằng chỉ được phản ứng bằng cách tấn công vào các phương tiện quân sự trực tiếp phục vụ cho cuộc gây hấn. Chỉ sau đó, nếu “bài học” không có tác dụng thì mới hành động mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, dù các chiến dịch do Tổng thống và Ngoại trưởng Mỹ dự kiến không ngay lập tức kéo theo một cuộc chiến tranh toàn diện, chúng vẫn đặt nước Pháp vào nguy cơ kéo dài quay lại một cuộc chiến kéo dài, tiêu hao ở Đông Dương, thậm chí là đối đầu với Trung Quốc[21].■ (Còn nữa)
Césari Laurent[1]
Lê Hằng Nga dịch
Chú thích:
[1] Césari Laurent (1957) là nhà sử học người Pháp chuyên nghiên cứu về chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ từ năm 1945 – 1961. (ND)
[2] Chiêu trò nghe hoành tráng nhưng thực chất là thiếu tính thực tế. (ND)
[3] NSC 5405 (16/1/1954), United States, Department of State, Foreign Relations of the United States (trích dẫn về sau: FRUS), XII, 1, 1952-1954, tr. 366-381
[4] United States, Senate, Executive Sessions of the Senate Foreign Relations Committee (trích dẫn về sau: SFRC), VI, tr. 113-114.
[5] President’s Special Committee Report on Southeast Asia, phần hai, United States, Congress, House of Representatives, Committee on Armed Services, United States- Vietnam relations, 1945- 1970 (trích dẫn về sau: PP, DOD), IX, tr. 346-358.
[6] Phỏng vấn Dulles-Radford-các nghị sĩ, 5/4/1954, FRUS, XIII, 1, 1952-1954, tr. 1224-1225 ; Army position on NSC action number 1074-a, không ghi ngày (khoảng 5/4/1954), PP, DOD, IX, p. 332; phỏng vấn Eisenhower-Dulles, 11/5 và 19/5/1954, FRUS, XIII, 2, 1952-1954, tr. 1532-1534 và 1583-1585; Valluy (DFGP Washington) tại Defnat Paris, số 399 DFGP/TS, 10/6/1954, Vincennes, Service historique de l’Armée de terre (trích dẫn về sau: SHAT), 1K233(42), hồ sơ 301-12-C-4 (Chuỗi 1K233 tương ứng với hồ sơ của tướng Paul Ely)
[7] Phỏng vấn Eisenhower-Dulles-Cutler, 5/5/1954 (FRUS, XII, 1, 1952-1954, tr. 446-450), và ngày 7/5/1954 (FRUS, XIII, 2, 1952-1954, tr. 1495-1498); Dulles trước Ủy ban đối ngoại Thượng viện, 12/5/1954, SFRC, VI, tr. 268-275.
[8] . Reynaud gửi J. Laniel, 18/3/1954, và G.Bidault, kế hoạch trả lời J. Laniel, Paris, Archives nationales (trích dẫn về sau: AN), 457AP52, hồ sơ 2 (chuỗi 457AP tương ứng với hồ sơ của G. Bidault); cuộc Họp Hội đồng An ninh quốc gia (sau viết tắt là: NSC), 6/4/1954, FRUS, XIII, 1, 1952-1954, tr. 1250-1265; An ninh quốc gia, ghi chú “trước hội nghị Genève”, 23/4/1954, AN, 457AP52, hồ sơ 3; J. Chauvel (Genève), số 185-186 và 187-189, 6/5/1954, như trên.
[9] G. Bidault (Genève), số 266-275, tài liệu 1954, AN, 457AP54, hồ sơ 2 ; G. Bidault (Genève), số 290, 11/5/1954, AN, số 457AP55, hồ sơ 5; Comigal Saigon à Etassociés Paris, 31228-31237, 14/5/1954, AN, 74AP35. (Chuỗi 74AP tương ứng với hồ sơ của Paul Reynaud)
[10] Báo cáo Lennuyeux, SHAT, 1K233(39), hồ sơ 300-01; M. Schumann, ghi chú không có ngày (30/4/1954), AN, 457AP53, hồ sơ 1; M. Schumann gửi Bidault, 1/5/ 1954, như trên; Tổng cục châu Á, lưu ý cho Chủ tịch, 4/5/1954, như trên; P. Reynaud, ghi chú viết tay, “20/5, Hội đồng Bộ trưởng, cuộc chạy đua Hoa Kỳ”, AN, 74AP40.
[11] Hoppenot (New York), số 1174-1178, 28/4/1954, AN, 74AP38; J. Laloy (Genève), ghi chú “Tình hình thực tiễn về vấn đề ở Đông Dương tại Hội nghị Genève”, 30/4/1954, Paris, Bộ Ngoại giao (trích dẫn về sau: MAE), Viễn Đông, số 1944-1955, Các hồ sơ chung, 262; R. Massigli (London), 2016-2021, 4/5/1954, AN, 457AP54, hồ sơ 2; “Hội nghị châu Á tại Genève. Quan hệ Bắc Kinh – Moskva tại Genève”, 6/5/1954, AN, 457AP55, hồ sơ 4; ghi chú SDECE, 7/5/1954, AN, 457AP53; “Việt Minh và việc giải quyết vấn đề ở Đông Dương”, 9/5/1954, AN, 457AP55, hồ sơ 4
[12] Dulles gửi Bidault và Bidault gửi Dulles, Genève, 3/5/1954, số AN, 457AP54, dossier 2 ; H. Bonnet (Washington), 3067-3070, 13/5/1954, như trên; phỏng vấn Dulles-Bonnet, 8/5/1954, FRUS, XIII, 2, 1952-1954, tr. 1516
[13] Phiên họp của NSC, 6 mai 1954, FRUS, XIII, 2, 1952-1954, p. 1481-1493; phỏng vấn Eisenhower-Dulles-Cutler, 7/5/1954, như trên, p. 1495-1498; biên bản ghi nhớ từ Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân gửi Bộ trưởng Quốc phòng, được Eisenhower chấp thuận, 7/5/1954, PP, DOD, IX, p. 430-434.
[14] Bidault gửi Dulles, Genève, 3/5/1954, AN, 457AP54, hồ sơ 2; phỏng vấn Dulles-Bonnet, Washington, 8/5/1954, FRUS, XIII, 2, 1952-1954, tr. 1516 ; Dillon (Paris), điện báo ngày 10/5/1954, như trên, tr. 1522-1525; G. Bidault (Genève), số 240-241, 10/5/1954, AN, 457AP54, hồ sơ 2; Phái đoàn Pháp (Genève), Ghi chú cho Chủ tịch, 1/6/1954, như trên.
[15] Dulles gửi Dillon, tài liệu 1954, FRUS, XIII, 2, 1952-1954, p. 1534-1536; cuộc họp Eisenhower-Dulles-các tham mưu trưởng, 28/5/1954, FRUS, XII, 1, 1952-1954, tr. 521-526.
[16] Phỏng vấn Smith-Robertson- Hoàng tử Wan-Pote-Sarasin, Genève, 15/5/1954, FRUS, XVI, 1952-1954, tr. 800-801
[17] Biên bản ghi nhớ các Tham mưu trưởng gửi Bộ Quốc phòng, 20/5/1954, FRUS, XIII, 2, 1952-1954, tr. 1590-1592
[18] Samuel F. Wells, “The origins of massive retaliation“, Political Science Quarterly, 96(1), xuân 1981, tr. 31-52; NSC 162/2, trong Mike Gravel ed., The Pentagon papers (trích dẫn về sau: PP, Gravel), I, p. 412-429; biên bản ghi nhớ của Robert Bowie, phụ lục một phỏng vấn Eisenhower-Dulles, 11/5/1954, FRUS, XIII, 2, 1952-1954, tr. 1532-1534
[19] Cuộc họp giữa Eisenhower-Dulles-các Tham mưu trưởng, 28/5/1954, FRUS, XII, 1, 1952-1954, tr. 521-526
[20] Phỏng vấn Dulles-Radford và cộng sự., 9/5/1954, FRUS, XII, 1, 1952-1954, tr. 463-465; Anderson gửi Dulles, 25/5/1954, như trên, tr. 513-516.
[21] Cuộc họp giữa Eisenhower-Dulles-các Tham mưu trưởng, đã dẫn.