Hồi kết của cuộc chiến ở Đông Dương (1954)

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là bản anh hùng ca của ý chí kiên cường, lòng yêu nước và sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc ta. Nhân dịp kỉ niệm 71 năm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ (07/5/1954 – 07/5/2025), Tạp chí Phương Đông trân trọng giới thiệu tới bạn đọc bài viết tổng hợp và phân tích về cuộc kháng chiến chống Pháp của nhà sử học Philippe Devillers đăng trên tạp chí “Revue français de science politique” số 2 năm thứ 24, xuất bản năm 1974.

Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946-1954) là kiểu mẫu của một cuộc xung đột vũ trang, mà về mặt pháp lý, chưa bao giờ có thể coi là một “cuộc chiến tranh” đúng nghĩa. Thật vậy, giữa các bên đối địch không hề có một “tuyên bố chiến tranh” hay thậm chí là một “công bố tình trạng chiến tranh”, bởi các cuộc xung đột đã phát triển dần dần, bắt đầu từ những sự cố địa phương. Để nước Pháp được xem là “đang có chiến tranh” thì Quốc hội phải ra tuyên bố. Nhưng điều này chưa bao giờ xảy ra. Tương tự, cũng không thể coi rằng trong một thời gian dài những “rối loạn” xảy ra ở Đông Dương là hậu quả hay kết quả của cuộc chiến tranh với Nhật Bản.

Trên thực tế, các khía cạnh pháp lý của cuộc xung đột ở Đông Dương rất kì lạ và phức tạp. Ngay trước khi Nhật Bản đầu hàng, Pháp đã có sự xác nhận, không chỉ từ Hoa Kỳ và Vương quốc Anh mà còn từ toàn thể các quốc gia trong Liên hợp quốc, rằng chủ quyền của Pháp tại Đông Dương không bị đặt thành vấn đề. Tuy nhiên, các quốc gia Đông Dương đã chớp lấy thời cơ khi Nhật sụp đổ để tuyên bố độc lập: Lào vào ngày 1 tháng 9, Việt Nam vào ngày 2 tháng 9, còn Campuchia thì xác nhận lại tuyên bố ngày 12/3/1945 của mình[2]. Tại Paris, những tuyên bố này bị bỏ qua hoặc coi là vô hiệu.

Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập. Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam

Vào tháng 10/1945, Pháp quay trở lại Đông Dương, cả về phương diện quân sự lẫn chính trị, với sự hậu thuẫn của Anh và ít nhất là sự ngầm đồng thuận của Washington và Trùng Khánh, chủ nghĩa dân tộc bản địa rơi vào thế phải “xét lại một cách cay đắng”. Trên thực tế, Campuchia và Lào sẽ sớm “quên” lời tuyên bố độc lập trước đây của mình để đàm phán một nền độc lập khác với Pháp, điều mà cả hai quốc gia này đạt được qua hai giai đoạn (năm 1949 và 1953), và được khẳng định bởi Hội nghị Genève năm 1954. Tuy nhiên, với Việt Nam thì lại hoàn toàn khác.

Việt Nam đã thành lập một nước Cộng hòa vào tháng 9/1945. Nhưng khi tố cáo các hiệp ước ràng buộc mình với Pháp, Việt Nam chủ yếu tuyên bố “quyền được độc lập”, đồng thời nhấn mạnh rằng trên thực tế, đất nước đã “tự do và độc lập”[3]. Chính phủ Hồ Chí Minh, với cái nhìn thực tế, đã để ngỏ khả năng đàm phán – đặc biệt là với Pháp, quốc gia mà việc quay trở lại Đông Dương được xem là điều không thể tránh khỏi – về một hiệp ước nhằm xác định rõ bản chất của nền độc lập Việt Nam (tức là quan hệ giữa Việt Nam với Paris), và lãnh thổ nơi chính quyền Việt Nam thực sự có chủ quyền hoặc ít nhất là có quyền kiểm soát.

Người ta biết rằng, Chính phủ Hà Nội đã nhanh chóng đạt được một “thỏa thuận khung” với Pháp, đó là Hiệp định Sơ bộ ngày 06/3/1946 hay còn gọi là “Hiệp định Sainteny – Hồ Chí Minh”.

Theo Hiệp định này, Chính phủ Pháp công nhận “nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do, có Chính phủ, Quốc hội, quân đội và tài chính riêng, là một phần của Liên bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp”. Hai bên, Paris và Hà Nội, sẽ tiếp tục đàm phán “đặc biệt là về quan hệ ngoại giao của Việt Nam với các nước khác, quy chế tương lai của Đông Dương, và các lợi ích kinh tế – văn hóa của Pháp tại Việt Nam”, nghĩa là để đàm phán lại – nhưng trên cơ sở hoàn toàn mới – Hiệp ước vốn đã ràng buộc Việt Nam và Pháp từ tháng 6 năm 1884. Về vấn đề thống nhất đất nước[4], Pháp cam kết sẽ tôn trọng ý nguyện của nhân dân, được thể hiện thông qua trưng cầu dân ý.

Điều cơ bản nhất là Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, và do đó, công nhận Chính phủ liên hiệp quốc gia của Việt Nam là một đối tác hợp pháp, điều này được khẳng định vài tuần sau đó khi Pháp đón tiếp Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Paris với nghi lễ dành cho nguyên thủ quốc gia.

Các cuộc đàm phán tại Fontainebleau nhanh chóng rơi vào bế tắc: phía Pháp khi đó khó có thể đưa ra lập trường rõ ràng, bởi họ đang trong quá trình soạn thảo một bản Hiến pháp mới. Đồng thời, tình hình cũng không thuận lợi cho những thỏa hiệp về vấn đề Nam Kỳ hay các lợi ích kinh tế của Pháp tại Việt Nam. Mặc dù các cuộc đàm phán bị đình chỉ vào đầu tháng 9/1946, nhưng chỉ là tạm hoãn, và với tinh thần thiện chí thể hiện trong một tuyên bố chung, hai bên dự kiến sẽ nối lại đàm phán từ tháng 01/1947, tức là sau khi nước Pháp có Hiến pháp và Chính phủ ổn định để có thể đưa ra quyết định về cơ cấu của Liên hiệp Pháp.

Phái đoàn Pháp tiếp đón Chủ tịch Hồ Chí Minh tới Paris trong thời gian diễn ra Hội nghị Fontainebleau năm 1946. Nguồn: Lưu trữ của gia đình ông Đỗ Đình Thiện

Theo Tạm ước ký ngày 14/9/1946, Việt Nam chấp nhận nguyên tắc là thành viên của Liên bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp, trong khi Pháp xác nhận sẽ tổ chức trưng cầu dân ý ở Nam Kỳ, nơi mà lệnh ngừng bắn sẽ được thi hành và các quyền tự do dân chủ được đảm bảo.

Tuy nhiên, phần lớn giới dân sự và quân sự ở Đông Dương – những người có ảnh hưởng đến diễn biến tình hình – không đánh giá cao cả sự chân thành của Chính phủ Pháp lẫn mong muốn đạt được một thỏa thuận công bằng và bền vững với Chính phủ Việt Nam. Ngay khi Quân đội Nhân dân Việt Nam nghiêm chỉnh thi hành lệnh ngừng bắn đã chứng minh sức mạnh của lực lượng kháng chiến ở miền Nam, và khi viễn cảnh Hồ Chí Minh chiến thắng trong cuộc trưng cầu dân ý ở Nam Kỳ trở nên rõ ràng, thì những sự kiện kỳ lạ bắt đầu xảy ra ở miền Bắc, tại cảng Hải Phòng. Từng bước leo thang, các sự kiện đó đã dẫn tới các cuộc giao tranh thực sự tại Hà Nội một tháng sau đó, và chiến sự bùng nổ trên toàn lãnh thổ Việt Nam vào ngày 20/12/1946.

Ngay khi Chính phủ Việt Nam bị đánh bật khỏi Hà Nội và bị cắt đứt mọi phương tiện liên lạc với dư luận quốc tế (điều này cho phép đổ trách nhiệm cho họ về các sự kiện đã xảy ra), Cao ủy Pháp tại Sài Gòn kết luận rằng “không thể nối lại đàm phán với Chính phủ ông Hồ Chí Minh” và nêu rõ lý do: “Chúng ta nay đã biết quá rõ rằng chính phủ này chưa bao giờ theo đuổi mục đích nào khác ngoài việc đảm bảo nền độc lập cho Việt Nam, bằng cách ngăn chặn mọi hình thức tái lập sự hiện diện của Pháp, chừng nào nền độc lập ấy chưa được công nhận một cách trọn vẹn và dứt khoát”.

Đường lối hành động cũng được vạch ra rõ ràng: “Mục tiêu của chúng ta đã được xác định rõ ràng: chuyển cuộc đối đầu với Đảng Việt Minh sang phạm vi của người An Nam”[5]. Ngày 14/1/1947, Đô đốc Thierry d’Argenlieu đã khuyến nghị Chính phủ Pháp nên mời cựu hoàng Bảo Đại trở lại chính trường.

Các mục tiêu và sự thay đổi theo thời gian

Nhiều tài liệu công bố trong vòng 20 năm qua cho thấy, từ phía Pháp, ba mục tiêu chính trong cuộc chiến tranh kéo dài chín năm này là:

1. Thiết lập và tổ chức một Liên bang Đông Dương, nhằm duy trì quyền kiểm soát quân sự, kinh tế và tài chính của Pháp trên toàn bộ Đông Dương, đồng thời giữ vững vị thế ưu tiên lợi ích của Pháp tại đây.

2. Củng cố quyền tự trị – hoặc thậm chí là độc lập – của Nam Kỳ, vốn là căn cứ địa chiến lược cho việc thống trị của Pháp

3. Loại bỏ Hồ Chí Minh và đảng của ông, tức Việt Minh, từ mùa thu năm 1945, vốn Pháp đã gán đây là phần tử cộng sản và chống Pháp, không chấp nhận là đối tác đàm phán. Xét nguyên nhân trực tiếp, lý do là “cuộc tấn công phản bội ngày 19/12”, nhưng trên thực tế là do phía Pháp cho rằng không thể thỏa hiệp trong vấn đề độc lập thực sự của Việt Nam.

Đối với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, các mục tiêu ưu tiên là:

1. Duy trì tồn tại với tư cách là một chính phủ, một nhà nước, một đội quân và một lực lượng kháng chiến, tránh bị tiêu diệt bộ máy nhà nước – vì chỉ khi giữ được những điều này thì mới có thể đạt được các mục tiêu khác trong tương lai.

2. Giữ được tính độc lập trong quan hệ với tất cả các bên và giành được sự công nhận có nguyên tắc về độc lập thực sự.

3. Giành được sự công nhận có nguyên tắc thống nhất của Việt Nam, và nếu có thể thì hiện thực hóa điều đó trên thực tế.

Đó là các mục tiêu cốt lõi của các bên tham gia cuộc xung đột. Đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trật tự ưu tiên này hầu như không thay đổi suốt nhiều năm, trong khi đối với Pháp, các mục tiêu này biến đổi sâu sắc và khá nhanh chóng.

Ngay từ tháng 01/1947, Pháp đã nhận ra rằng loại bỏ Hồ Chí Minh và Việt Minh không phải là mục tiêu dễ dàng. Cao ủy tại Sài Gòn thừa nhận rằng không thể tách quần chúng ra khỏi Việt Minh nếu đặt vấn đề về tinh thần dân tộc, tức là về “tự do” mà người Việt đòi hỏi. Điều đó tức là thừa nhận rằng đa số quần chúng đứng về phía Hồ Chí Minh.

Hơn nữa, việc sử dụng vũ lực cũng chỉ có thể ở trong một giới hạn nhất định, vì:

Về đối nội: dư luận Pháp (nhất là cánh tả) phản đối hoặc dè dặt, chi phí chiến tranh cao

Về đối ngoại tại Việt Nam: cần có ít nhất một bộ phận người Việt có tính đại diện và có uy tín đứng về phía Pháp thì mới có thể chống lại lực lượng của ông Hồ Chí Minh một cách hiệu quả.

Về quốc tế: trong bối cảnh tuyên truyền chống thực dân của Hoa Kỳ và Liên Xô, Pháp bị cáo buộc đang tiến hành một cuộc chiến tranh tái xâm lược thuộc địa.

Vì vậy, nước Pháp buộc phải tạo ra một “vỏ bọc Việt Nam” cho chiến dịch của mình. Bảo Đại là người duy nhất mà Paris chấp nhận sử dụng, nhưng lại không định nghĩa rõ ràng hay làm sáng tỏ xem cựu hoàng này đại diện cho điều gì.

Ngay từ đầu năm 1948, mục tiêu hàng đầu của Pháp trở thành việc làm cho “giải pháp Bảo Đại” thành công, vì chỉ khi thông qua Bảo Đại – hoặc đúng hơn là thông qua hình ảnh của ông – thì các mục tiêu khác (đã phải che giấu, diễn đạt nhẹ đi hay thậm chí thay đổi về hình thức) mới có thể đạt được. Nếu Bảo Đại được kiểm soát chặt chẽ và đảm bảo đầy đủ việc tôn trọng các lợi ích của Pháp, thì không còn cần phải giữ Nam Kỳ như một căn cứ nữa, dù nó vẫn là nơi Bảo Đại sẽ khai thác phần lớn nguồn lực của mình. Thông qua trung gian là Bảo Đại, Pháp hy vọng đảm bảo việc bảo vệ các lợi ích của mình trong một nước Việt Nam thống nhất.

Các tính toán này nhanh chóng làm cho Liên bang Đông Dương mất đi phần lớn sức hấp dẫn. Người Pháp nhận ra rằng:

– Họ không còn gì nhiều để giành được hay giữ lại ở Campuchia và Lào, ngoài một vài đồn điền và căn cứ dùng để khống chế Việt Nam;

– Tất cả giờ đây chỉ còn lại mục tiêu là phải thắng cuộc chiến tại Việt Nam;

– Nếu thắng cuộc chiến tại Việt Nam thì sẽ dễ dàng thiết lập các dịch vụ chung giữa ba nước Đông Dương, dưới hình thức các “quốc gia liên kết” mà Pháp vẫn có cơ hội kiểm soát, dù là trực tiếp hay gián tiếp.

Đây sẽ là giải pháp thay thế hiệu quả hơn cho mô hình Liên bang Đông Dương, và về mặt hình thức thì ít bị chú ý hơn.

Từ cuối năm 1947, phía Pháp bắt đầu xáo lại hoàn toàn các “lá bài” và sắp xếp lại các mục tiêu một cách triệt để. Mọi thứ giờ đây xoay quanh việc loại bỏ Hồ Chí Minh.

Đối với Pháp, cuộc xung đột nay chỉ còn là việc thay thế một nhóm người này bằng một nhóm người khác ở vị trí lãnh đạo Nhà nước Việt Nam (nhà nước này vẫn nằm trong khuôn khổ chủ quyền của Pháp). Tức là “xóa sổ” nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và thay thế bằng một “Nhà nước Việt Nam” được hình thành từ Nam Kỳ, dưới hệ thống do Pháp thiết lập. Việc tạo dựng và củng cố “Nhà nước Việt Nam” này trở thành mục tiêu số một của Pháp, vì họ tin rằng chỉ có sự thành công của nhóm Bảo Đại mới có thể đảm bảo an ninh, thịnh vượng và sự phát triển của các lợi ích Pháp tại Việt Nam. Đó chính là mục tiêu cốt lõi của chính phủ Paris tại Đông Dương kể từ năm 1948.

Sang năm sau (1949), chiến thắng của Mao Trạch Đông tại Trung Quốc đã tước đi mọi cơ hội để Pháp có thể tự mình đánh bại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vốn giờ đây được đảm bảo sự hỗ trợ từ cả Trung Quốc và Liên Xô. Trước tình thế đó, Paris đã nâng tầm cuộc chiến của mình, và chèn nó vào cuộc xung đột toàn cầu giữa Washington và Moskva. Chiến thắng của chế độ Bảo Đại được đồng hóa với lợi ích của “thế giới tự do”. Cuộc chiến tranh Triều Tiên đã hoàn tất sự đồng nhất này. Dù Đông Dương và Triều Tiên cách xa nhau về mặt địa lý, phía Pháp nhấn mạnh rằng hai mặt trận đó là cùng một cuộc chiến.

Chủ tịch Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa ngày 1/10/1949. Nguồn: Lưu trữ của Mondadori

Đây là khởi đầu cho cuộc leo thang, làm cho các mục tiêu ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn, đồng thời làm phức tạp thêm nỗ lực tìm kiếm một lối thoát. Pháp không còn đơn độc trong cuộc chiến, nhưng cũng không còn giữ toàn quyền quyết định. Và khi tương quan lực lượng có xu hướng thay đổi bất lợi cho Pháp, chỉ có sự hỗ trợ quy mô lớn từ Mỹ mới có thể làm xu thế đó chậm lại. Việc Mỹ can thiệp vào xung đột ở Việt Nam bắt đầu biến đổi mục tiêu duy nhất của Pháp. Vì không thể hợp pháp gọi đây là một cuộc chiến, mà chỉ có thể chính thức coi như một “chiến dịch rà soát” trong lãnh thổ Liên hiệp Pháp, Pháp không thể tăng cường nỗ lực quân sự vượt quá một mức độ nhất định. Dư luận trong nước không cho phép điều đó. Không thể huy động quân lính nghĩa vụ để “bình định” một vùng đất cách xa 10.000km.

Tướng De Lattre de Tassigny không thể trông đợi vào việc nhận thêm quân và thiết bị từ chính quốc, buộc phải tuyển mộ lính từ dân chúng Việt Nam, đồng thời yêu cầu Mỹ cung cấp thêm vũ khí. Trong cả hai trường hợp đó, ông chỉ có thể đạt được mong muốn của mình nếu trao cho Bảo Đại thêm quyền tự chủ. Thứ nhất, không thể yêu cầu người Việt đánh nhau với lực lượng của Hồ Chí Minh chỉ vì lợi ích của Pháp. Thứ hai, người Mỹ không muốn hỗ trợ cho một cuộc tái chiếm thuộc địa, mà chỉ muốn giúp củng cố một nước Việt Nam độc lập, dân tộc chủ nghĩa và chống cộng sản.

Lớp vỏ Bảo Đại, vốn tạo ra để bảo đảm lợi ích của Pháp, giờ đây dần trở thành một quân bài trong bàn cờ của một cường quốc khác – Mỹ – dù là đồng minh của Pháp, nhưng lại có mục tiêu riêng của mình. Vậy trong hoàn cảnh đó, còn lại gì là “mục tiêu” thực sự nữa? Và tại sao quân đội Pháp lại tiếp tục chiến đấu, ở một nơi xa xôi đến vậy, cho người Việt này chống lại người Việt khác? Kể từ năm 1952, đó chính là toàn bộ vấn đề đặt ra về tính chính đáng của hướng đi vạch ra từ năm 1947.

Tướng de Linarès, Tổng tư lệnh Lực lượng Lục quân miền Bắc Việt Nam, và ông Bảo Đại đang thảo luận với các vị khách tại tiệc chiêu đãi do Thống đốc Bắc Kỳ tổ chức năm 1952. Ảnh: Pierre Jahan

Tình hình cuối năm 1953: Khi nào và làm cách nào để đàm phán?

Đầu năm 1953, chính sách của Pháp tại Đông Dương rõ ràng đã đạt đến điểm giới hạn, thậm chí rơi vào bế tắc.

Trong hai năm qua, Chính phủ Pháp vẫn tiếp tục cuộc chiến, nhưng không còn tin rằng có thể giành được chiến thắng, mà chỉ hy vọng tình hình sẽ tự sáng tỏ, rằng đối phương sẽ mệt mỏi, nhưng chủ yếu là để che giấu thất bại đang đến gần, hoặc cố tránh điều đó nếu còn có thể.

Tuy nhiên, mọi chuyện giờ đây có nguy cơ trở nên tồi tệ hơn nhiều. Trên thực tế, Trung Quốc gia tăng viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (giúp Tướng Giáp có thể phát động cuộc tấn công về phía Lào vào mùa xuân năm 1953) sẽ buộc Pháp phải yêu cầu Mỹ tăng viện trợ. Có thể đoán trước rằng Washington sẽ đòi hỏi quyền giám sát việc sử dụng viện trợ ấy. Khi đã chi trả hơn 2/3 chi phí của cuộc chiến, Mỹ không thể thờ ơ với cách tiến hành chiến trận.

Diễn biến này phần nào sẽ củng cố vị thế của Bảo Đại, người dưới áp lực của các nhà dân tộc chủ nghĩa, và với sự hậu thuẫn của Mỹ, sẽ tìm cách buộc Pháp phải nhượng bộ thêm về mặt chính trị – thậm chí là trao trả hoàn toàn nền độc lập. Đối với Pháp, điều này đồng nghĩa với việc sớm muộn gì cũng sẽ mất hoàn toàn Đông Dương – nơi mà họ đã chiến đấu suốt bảy năm để cố giữ. Việc Việt Nam rời Liên hiệp Pháp và rơi vào vùng ảnh hưởng của Mỹ sẽ bị dư luận Pháp coi là một thảm họa chính trị nghiêm trọng. Do đó, Pháp buộc phải tìm cách chấm dứt cuộc xung đột nguy hiểm này, và điều đó nghĩa là phải đi tìm một giải pháp đàm phán. Để có thể rút khỏi Đông Dương mà vẫn “giữ thể diện”, cuộc đàm phán phải là một cuộc đàm phán quốc tế, và chỉ được bắt đầu từ một vị trí có ưu thế.

Kế hoạch Navarre, thông qua vào tháng 7/1953, nhằm tạo ra vị thế mạnh này: củng cố miền Nam và kiềm chế đối phương ở miền Bắc, làm tiêu hao lực lượng của họ, để đến một lúc có thể “đánh gãy” và buộc họ phải chấp nhận một thỏa hiệp có lợi, thậm chí là một kiểu đầu hàng. Tuy nhiên, cuộc tấn công của tướng Giáp sang Lào đã khiến tướng Navarre phải điều chỉnh kế hoạch và chiếm giữ thung lũng Điện Biên Phủ vào tháng 11/1953.

Trong khi quân đội Pháp rút về phòng thủ tại đó, Hồ Chí Minh, trong một cuộc phỏng vấn với nhật báo Thụy Điển Expressen, đã phát tín hiệu rằng nếu Pháp thực sự muốn chấm dứt xung đột, thì ông sẵn sàng đàm phán. Một hội nghị quốc tế về bán đảo Triều Tiên được tổ chức, nhân một cuộc gặp ở Berlin giữa bốn cường quốc lớn bàn về vấn đề nước Đức: hội nghị đó sẽ khai mạc tại Genève vào ngày 16/4/1954, và được quyết định là sẽ không chỉ nhằm khôi phục hòa bình ở Triều Tiên, mà còn cả ở Đông Dương. Việc giải quyết xung đột Đông Dương, do đó, gần như “gắn liền” một cách tình cờ vào vấn đề chiến tranh Triều Tiên.

Cuộc đàm phán quốc tế

Pháp không giấu giếm việc mình đang tìm kiếm hòa bình, và vì thế, muốn đạt được một “thỏa hiệp danh dự”, điều này khiến Washington lo ngại. Chính phủ Mỹ, vì đang tài trợ cho kế hoạch Navarre và vẫn tin tưởng vào thành công của nó, nên vào đầu năm 1954 vẫn hy vọng rằng Pháp sẽ giành chiến thắng ở Đông Dương[6] – điều mà họ xem là tiền đề bắt buộc cho bất kỳ cuộc đàm phán nào. Phải mất một thời gian, Mỹ mới dần nhận ra tình hình thực tế đã thay đổi.

Về phía chính phủ Pháp, cuộc đàm phán nên quy tụ tám quốc gia: Pháp, Anh, Mỹ, Liên Xô, rồi đến Trung Quốc và ba quốc gia liên kết trong Liên bang Đông Dương (Việt Nam, Campuchia, Lào), và cuối cùng – có thể – là một số “đại diện của Việt Minh”, vì khó lòng đạt được một thỏa thuận ngừng bắn mà không có họ.

Tuy vậy, bất chấp các tín hiệu gần đây từ Hồ Chí Minh, Ngoại trưởng Bidault không hề có ý định thừa nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tham gia đàm phán. Trong mắt ông, đó chỉ là một nhóm phiến loạn – những người mà Pháp muốn thương lượng để họ đầu hàng, quy phục, hoặc hợp thức hóa bằng cách sáp nhập vào quốc gia Việt Nam (tức chính quyền Bảo Đại). Paris dường như không nhận ra rằng Moskva và Bắc Kinh – những nước đã công nhận chính phủ Hồ Chí Minh là chính phủ hợp pháp duy nhất ở Việt Nam – sẽ không chấp nhận ván bài này.

Mục tiêu của Pháp khi bước vào đàm phán tại Genève là thuyết phục (với sự ủng hộ của Anh – Mỹ) Liên Xô và Trung Quốc buông bỏ Hồ Chí Minh, hoặc là để ông ấy bị tiêu diệt (như Markos từng bị ở Hy Lạp), hoặc là khiến ông ấy quy phục. Đổi lại là gì? Những nhượng bộ nào ở châu Âu hoặc châu Á? Có thể là một vài “món quà ngọt ngào” – như cách ông Bidault mô tả – chẳng hạn các nhà máy “chìa khóa trao tay”, các khoản tín dụng, hay việc nới lỏng phong tỏa kinh tế đối với Trung Quốc. Trong lĩnh vực này, Mỹ thực tế nắm chìa khóa của cuộc đàm phán, bởi họ có tiếng nói quyết định trong các hội đồng đồng minh. Điều Bắc Kinh thực sự quan tâm là Đài Loan và việc Trung Quốc được vào Liên Hợp Quốc – mà điều đó lại phụ thuộc hoàn toàn vào Washington, chứ không phải Paris.

Tuy nhiên, Hoa Kỳ – vốn phản đối các cuộc đàm phán – chắc chắn sẽ không làm gì để tạo điều kiện cho chúng diễn ra. Dù về bản chất vẫn muốn có một chiến thắng quân sự trước, họ giờ đây đột nhiên nhận ra điều đó là bất khả thi. Mỹ lo ngại về khả năng mặt trận Đông Dương sụp đổ, hoặc Pháp sẽ tự ý đàm phán và ký hòa ước riêng, khiến họ đắn đo không biết nên có thái độ và chiến lược nào. Trong khi đó, chính phủ Laniel – Bidault ở Paris cũng đang tự hỏi liệu có thể kỳ vọng điều gì từ hội nghị Genève nếu không có sự hậu thuẫn từ Washington.

Người Anh, thực tế hơn, đã được Liên Xô liên hệ ngay sau hội nghị Berlin, và họ biết rằng Điện Kremlin không phản đối một giải pháp chia cắt. Có lẽ trong các cuộc tiếp xúc này cũng đã nhắc đến khả năng thành lập một chính phủ liên hiệp ở Việt Nam – một giả thuyết mà Washington, khi được báo trước, đã lập tức bác bỏ vì cho rằng điều đó sẽ là thảm họa thực sự[7].

Pháp, khi tự đặt ra mục tiêu như vậy, đã tự đẩy mình vào thế không thể đàm phán một cách độc lập nữa. Dĩ nhiên, họ cũng dự tính sẽ tận dụng sự ủng hộ từ các đồng minh phương Tây, điều này nằm trong chiến lược của họ. Nhưng liệu họ có thể điều chỉnh sự ủng hộ này theo ý muốn của mình, chỉ bằng cách “đặt cược vào Hoa Kỳ”, như John Foster Dulles từng nói? Điều đó vẫn chưa được chứng minh. Để đàm phán có hiệu quả, Pháp cần một mức độ tối thiểu của quyền tự chủ. Với những trách nhiệm cao nhất mà Pháp vẫn còn giữ tại chiến trường Đông Dương, họ vẫn có nhiều lợi thế để đàm phán hữu ích, mà không làm phương hại đến “an ninh của thế giới tự do”.

Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ John Foster Dulles và Thủ tướng Pháp Pierre Mendès France bắt tay sau cuộc họp với Ngoại trưởng Anh Anthony Eden ngày 14/7/1954. Nguồn: Lưu trữ Bettmann

Giai đoạn tiếp cận này kết thúc bằng một tín hiệu kín đáo từ Anh và Pháp gửi đến Moskva: Điện Kremlin phải chứng minh rằng đàm phán là khả thi, rằng Liên Xô và Trung Quốc là những đối tác nghiêm túc, sẵn sàng tiếp cận vấn đề phức tạp này với tinh thần xây dựng, không cứng nhắc hay kiêu ngạo như phương Tây vẫn nghĩ. Nếu hai cường quốc cộng sản này hiểu được thông điệp và nắm bắt cơ hội để chứng tỏ rằng một thời kỳ của Chiến tranh Lạnh đã chấm dứt, thì ông Dulles, với sự cứng rắn nổi tiếng của mình, sẽ khó có thể làm hỏng hội nghị.

Một sự hợp tác đầu tiên – hay đúng hơn là “cái nháy mắt” – đã diễn ra một cách ngầm hiểu, ngay từ mùa xuân năm 1954, giữa Anh, Pháp và Liên Xô. Có vẻ như ba thủ đô đã hiểu nhau. Với tín hiệu đầu tiên từ phía Pháp, cho thấy cả Pháp và Liên Xô – vì những lý do rất khác nhau – đều quan tâm đến cuộc đàm phán này, Điện Kremlin đã đáp lại, hiểu rõ rằng mình đang đáp ứng mong muốn từ Paris, bằng một đề xuất: Sự hợp tác của Trung Quốc là thiết yếu cho việc giải quyết vấn đề Đông Dương cũng như cho vấn đề Triều Tiên. Nhưng sự hợp tác này chỉ có được nếu Trung Quốc được tham dự hội nghị trên cơ sở bình đẳng với bốn cường quốc lớn, tức là với tư cách là một cường quốc tham gia, chứ không phải chỉ là một bên tham chiến ở Triều Tiên. Điều này không làm Washington hài lòng, nhưng ông Dulles biết điều đó quá muộn để phản ứng kịp thời. Hơn nữa, ông cũng không thể phá vỡ các thỏa thuận đang diễn ra – những thỏa thuận rõ ràng đang gia tăng cơ hội thành công của hội nghị Genève – mà không gây ra khủng hoảng với Paris và London. Như vậy, diễn đàn quốc tế thích hợp đã được hình thành, một diễn đàn mà phe xã hội chủ nghĩa từ lâu đã yêu cầu, và một tình thế quân sự gay gắt đã buộc phương Tây phải chấp nhận. Nhờ hội nghị Genève, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã có được sự công nhận trên thực tế. Còn Pháp và Anh, họ kín đáo hoan nghênh sự tiến bộ của chủ nghĩa hiện thực, và khả năng làm dịu đi phần nào chính sách giáo điều, thậm chí là nhị nguyên thiện – ác, của đồng minh lớn của họ. Chủ nghĩa thực dụng, trong hoàn cảnh này là nhu cầu nhân đạo và quân sự cấp bách từ trận chiến và sự đầu hàng tại Điện Biên Phủ (đặc biệt là cần sơ tán người bị thương), đã khiến Pháp, chỉ vài ngày sau đó, phải chấp nhận sự tham gia chính thức của đối thủ trực tiếp là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào bàn đàm phán.

Những thương binh cuối cùng tại trận Điện Biên Phủ đang chờ sơ tán. Ảnh: Fernand Jentile và Réne Adrian

Liên Xô và Trung Quốc sẽ không thảo luận về giải pháp cho Đông Dương nếu không có sự hiện diện của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và điều đó trở thành điều kiện tiên quyết cho việc khai mạc hội nghị. Paris đã buộc phải chấp nhận.

Các bên giờ đây đã chấp nhận sự hiện diện của nhau tại Genève – và theo đó, là sự tồn tại của nhà nước Việt Nam do bên kia bảo trợ, dù sự “khoan dung” này không đồng nghĩa với việc công nhận chính thức từ bất kỳ bên nào.

Tuy nhiên, điều này đã dẫn tới việc đặt hai nhà nước Việt Nam vào thế ngang hàng, và do đó đã báo trước một giải pháp chia cắt, vì cả Hồ Chí Minh và Bảo Đại đều tuyên bố đại diện cho toàn nước Việt Nam. Lo sợ khả năng chia cắt, Bảo Đại đã yêu cầu nước Pháp đưa ra những đảm bảo để đổi lấy sự tham gia của ông vào hội nghị. Ông Bidault, vào ngày 06/5/1954, đã cam đoan với ông rằng Chính phủ Pháp không tìm kiếm tại Genève một giải pháp chính trị dứt điểm, mà chỉ đơn giản là “một lệnh ngừng bắn trong khuôn khổ một hiệp định đình chiến, bảo đảm an toàn cho ba quốc gia Đông Dương, cho nước Pháp và cho các cường quốc đồng minh có lợi ích gắn bó với chúng ta ở Đông Nam Á”. Ông còn nói thêm: “Không gì trái ngược hơn với ý định của Chính phủ Pháp bằng việc chuẩn bị thiết lập – làm tổn hại đến sự thống nhất của Việt Nam – hai nhà nước, mỗi bên có vị thế quốc tế riêng…”[8]

Sự thỏa hiệp: Hiệp định Genève

Mục tiêu ban đầu của ông Bidault, trong hoàn cảnh như vậy, liệu còn có thể đạt được không? Vấn đề thực ra vẫn nằm ở đó: Phải chăng nước Pháp giờ đây chỉ còn tìm cách chấm dứt chiến sự, để có thể rút khỏi Đông Dương càng nhanh càng tốt? Tuy nhiên, nước Pháp vẫn cần bảo đảm sự sống còn, nếu không muốn nói là chiến thắng, cho các quốc gia liên kết mà họ đã thiết lập. Với chính phủ Paris, quân đội của Hồ Chí Minh phải rút khỏi Lào và Campuchia hoàn toàn và vô điều kiện. Còn về Việt Nam, chỉ một lệnh ngừng bắn tại chỗ (theo kiểu “da beo” – tức chia cắt theo vùng kiểm soát) cùng những bảo đảm vững chắc mới phù hợp với việc tôn trọng chủ quyền của Bảo Đại và Nhà nước liên kết do ông đứng đầu.

Từ ngày 4/7, một Ủy ban quân sự gồm phái đoàn Pháp – Việt và phái đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) đã họp tại trại Trung Giã, cách Hà Nội 40 km về phía Bắc thảo luận về việc thực thi các hiệp định, chủ yếu là việc trao đổi tù binh. Phái đoàn Pháp do đại tá Marcel Lennuyeux dẫn đầu, còn phái đoàn QĐNDVN do tướng Văn Tiến Dũng đứng đầu. Ảnh: Fernand Jentile

Để đạt được lệnh ngừng bắn này – vốn không được phép định trước bất kỳ giải pháp chính trị nào – ông Bidault không ngừng treo lơ lửng lên đầu các đối thủ lời đe dọa về sự can thiệp của Mỹ: nếu trên chiến trường, tướng Giáp đi quá xa trong việc tận dụng các lợi thế của mình, Pháp sẽ cầu viện các đồng minh. Lời đe dọa “nâng lên cấp độ cao hơn”, đến mức xung đột toàn cầu, không phải là không có hiệu quả, bởi vì trong nhiều tuần lễ, nó vẫn là điều hoàn toàn khả tín[9].

Tuy nhiên, dù có thể làm chậm nhịp độ các chiến dịch quân sự tại Đông Dương trong thời gian ngắn, lời đe dọa đó lại không đủ để thúc đẩy đàm phán ngoại giao. Trên thực tế, cả hai bên đều đang tìm kiếm một giải pháp chính trị, và sẽ sớm trở nên rõ ràng rằng không thể đạt được bất kỳ thỏa thuận quân sự nào nếu đồng thời không thống nhất được một số nguyên tắc hoặc giải pháp chính trị.

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, dựa vào tính chính danh của mình, không thể chấp nhận một hiệp định đình chiến mà về bản chất, công nhận sự tồn tại của “Chính phủ Liên bang Đông Dương” – sản phẩm thuần túy do Pháp tạo ra. Vào đầu tháng 6, họ bí mật đề xuất với Pháp một lệnh ngừng bắn và phân chia lực lượng – tức là một sự chia cắt quân sự tạm thời ở Việt Nam – thì rõ ràng họ đang nhắm tới mục tiêu chính trị. Chỉ cần Paris thừa nhận thực tế và chấp nhận nối lại, dưới những hình thức khác, cuộc đàm phán từng bị ngắt quãng năm 1946, thì lợi ích của Pháp ở Đông Dương vẫn có thể được bảo toàn. Điều đó cũng mang hàm ý rằng: Pháp không cần đến Hoa Kỳ để tiếp tục hiện diện ở Đông Dương. Ông Bidault không còn thời gian để phản hồi lời đề nghị quan trọng đó (do Chính phủ Laniel sụp đổ vào ngày 12/6). Có lẽ ông cũng sẽ không đáp lại, bởi ông kiên quyết từ chối mọi kiểu “mặc cả toàn cầu” và bất kỳ cam kết nào có thể làm lung lay chính thể Bảo Đại – chế độ mà ông là người đã góp công lớn trong việc tạo dựng và củng cố. Cho tới hôm nay, không ai có thể chắc chắn: nếu tình hình quân sự ở miền Bắc Việt Nam xấu đi hơn nữa, liệu ông Bidault sẽ đưa ra những quyết định gì.

Với Pierre Mendès France, ngược lại, đó là ý chí dứt khoát và kết thúc vấn đề mà phía Pháp thể hiện. Quyết định đầu tiên của vị tân Thủ tướng là chấp nhận gắn kết các vấn đề chính trị và quân sự với nhau – nói cách khác, thảo luận về những ý chính của một giải pháp chính trị đồng thời với các điều kiện của thỏa thuận quân sự.

Quả thật, mục tiêu của Pháp lại một lần nữa thay đổi.

Đối với Paris, mục tiêu số một không còn là “cứu vãn Việt Nam của Bảo Đại”, mà đơn giản chỉ là: cứu lấy quân đội Pháp ở Bắc Kỳ, rút khỏi Đông Dương mà không mất thể diện, không làm lung lay Liên hiệp Pháp hay “thế giới tự do”. Để có được lệnh ngừng bắn – giờ đây vốn là điều thiết yếu – trong thời hạn rất ngắn (chỉ 5 tuần), Pierre Mendès France trước hết phải chứng minh với đối phương rằng mình không bị dồn vào đường cùng. Dù ông không che giấu mong muốn hòa bình, ông vẫn cố gắng thể hiện rằng mình không sẵn sàng ký bất kỳ thỏa thuận nào bằng mọi giá. Ông muốn đàm phán, với sự đồng thuận hoàn toàn từ Washington và London, để đạt một hiệp định đình chiến danh dự; và nếu không thể đạt được điều đó trước ngày 20 tháng 7, ông sẽ kêu gọi quân dịch và thực hiện hành động chung với Hoa Kỳ và Vương quốc Anh.

Chính vào giai đoạn này, lần này là trên quy mô lớn, một sự hợp tác ngầm giữa các bên đối địch được thiết lập. Pierre Mendès France đã chứng minh cho Liên Xô, Trung Quốc và cả phe Việt Minh của Hồ Chí Minh rằng họ có lợi nếu ông thành công: một chữ ký trước ngày 10 tháng 7 là cách duy nhất để tránh điều họ lo sợ nhất, đó là sự bùng phát trở lại và mở rộng của chiến tranh, và sự can thiệp của Hoa Kỳ. Pháp vẫn giữ vai trò chủ đạo trong cuộc chơi. Hãy tạo điều kiện cho họ.

Sự “hợp tác giữa các đối thủ” này cho phép Pierre Mendès France giữ đúng cam kết của mình, và hiệp định ngừng bắn cho toàn bộ Đông Dương sẽ được ký kết vào đúng ngày 10/7/1954 như đã định. Tuy nhiên, việc chấm dứt các cuộc thù địch này chỉ đạt được trên cơ sở những cam kết hoặc bảo đảm mâu thuẫn nhau, điều mà sau này sẽ dẫn đến nhiều hiểu lầm. Sự hợp tác giữa các đối thủ có những giới hạn tự nhiên mà việc vượt qua chúng là điều nguy hiểm.

Về cơ bản, Hồ Chí Minh, người đang ở trong tình thế quân sự thuận lợi nhưng không thể hy vọng vào một chiến thắng do khả năng có sự can thiệp của Hoa Kỳ, đã chấp thuận một lệnh ngừng bắn và việc tập kết lực lượng ở hai bên của vĩ tuyến 17 (ban đầu ông đã yêu cầu vĩ tuyến 13), đổi lại là một bảo đảm từ phía Pháp rằng khu vực phía Nam Việt Nam sẽ ít nhiều được trung lập hóa (không có căn cứ quân sự nước ngoài, không liên minh…), rằng sẽ có các cuộc bầu cử để thiết lập một chính phủ thống nhất cho Việt Nam, chậm nhất là vào năm 1956. Trong thời gian chờ đợi cuộc bầu cử này, các quyền tự do dân chủ sẽ được bảo đảm… Đây là một phiên bản chỉnh sửa của Tạm ước giữa Marius Moutet và Hồ Chí Minh năm 1946.

Tướng Detheil (bên trái) và ông Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kí thỏa thuận ngừng bắn ngay trước đêm 20/07/1954 tại Genève. Nguồn: AFP

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã trao cho Pháp những gì mà họ vẫn còn cho là mục tiêu hợp lý nhất của Paris: bảo vệ các lợi ích kinh tế và văn hóa của Pháp tại Đông Dương. Về phần mình, họ đã đạt được phần lớn các mục tiêu chiến tranh: bộ máy nhà nước của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được giữ vững, và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được các cường quốc công nhận kiểm soát lãnh thổ phía Bắc vĩ tuyến 17. Nguyên tắc về độc lập, chủ quyền và thống nhất của Việt Nam đã được các cường quốc công nhận[10]. Vấn đề giờ đây là làm thế nào để thiết lập một chính phủ duy nhất và hợp pháp cho Việt Nam, với những bước chuyển tiếp cần thiết. Tại Moskva và Bắc Kinh, người ta tin rằng Pháp sẽ nắm bắt cơ hội này để duy trì ảnh hưởng vượt trội tại Đông Dương, lần này là trong sự phối hợp đầy đủ với các chính phủ dân chủ.

Tuy nhiên, trên thực tế, Pháp chỉ nhận được sự chấp thuận của các đồng minh Anglo-Saxon cho việc ký kết hiệp định đình chiến dựa trên niềm tin rằng khu vực phía Nam Việt Nam sẽ không rơi vào ảnh hưởng cộng sản, ngay cả thông qua bầu cử. Nguyên tắc là một chuyện, chính trị lại là chuyện khác. Lo sợ rằng Paris sẽ thực thi các hiệp định đã ký, Washington đã ngay lập tức tìm cách củng cố quyền lực cho Diệm, Thủ tướng mới của Bảo Đại, người đã từ chối ký vào các hiệp định Genève và không giấu giếm ý định ngăn chặn việc thực thi các điều khoản chính trị của hiệp định.

Vì muốn tránh đối đầu với Hoa Kỳ, Pháp dần dần điều chỉnh theo chính sách Việt Nam của Mỹ, và chấp nhận không chỉ việc chia cắt Việt Nam, mà còn cả việc chuyển giao ảnh hưởng từ Pháp sang Mỹ tại vùng đất từng là Nam Kỳ và một phần xứ bảo hộ Trung Kỳ. Nhìn chung, giới kinh tế và tài chính Pháp đã chọn cách hoàn toàn từ bỏ miền Bắc, và rút về miền Nam, nơi mà họ thấy rằng định hướng chính trị – cả đối nội lẫn đối ngoại – có lợi hơn cho kinh doanh so với việc hợp tác với chính quyền cộng sản ở Hà Nội.

Cuộc xung đột vũ trang giữa Pháp và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kết thúc như vậy bằng một sự thỏa hiệp kỳ lạ về mặt nguyên tắc: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã giành được ở Genève nhiều hơn những gì từng được Paris công nhận vào năm 1946, nhưng cũng phải chấp nhận một sự thu hẹp – có thể chỉ là tạm thời – lãnh thổ nằm dưới quyền kiểm soát của mình. Phía Pháp mất mát nhiều hơn: họ đã lần lượt từ bỏ các kế hoạch về một Liên bang Đông Dương và các dịch vụ chung, về việc tích hợp vào Liên hiệp Pháp, cũng như về một Việt Nam thống nhất. Họ không thể xóa sổ hay đánh bại được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và thậm chí không còn có thể tuyên bố rằng mình có ảnh hưởng đến chính phủ Sài Gòn – vốn đã rơi vào quỹ đạo của Mỹ. Tóm lại, Pháp không đạt được một mục tiêu chính trị quốc gia nào.

Miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia tuy vẫn còn nằm trong phạm vi ảnh hưởng của phương Tây, và lợi ích kinh tế của Pháp vì thế vẫn được bảo toàn. Nhưng có thực sự cần thiết phải chiến đấu suốt bảy năm, khiến một triệu người Pháp và Việt Nam thiệt mạng, và tiêu tốn một khoản tương đương với kế hoạch viện trợ Marshall dành cho nước Pháp, để rồi đến năm 1954 lại quay về gần như đúng chỗ đã khởi đầu vào tháng 11 năm 1946?

Cuộc xung đột gần như kết thúc trong thế hòa. Nhưng có lẽ điều khôn ngoan hơn là dừng lại, thay vì tiếp tục một cuộc đối đầu mà ở thời điểm ấy đã bị đẩy xa khỏi khuôn khổ khu vực, và có nguy cơ kéo theo – nếu không phải là Trung Quốc thì ít nhất cũng là Hoa Kỳ. Khi vấn đề Đông Dương bị quốc tế hóa, nó mất đi phần lớn ý nghĩa đối với dư luận Pháp, trong khi rủi ro và chi phí lại tăng lên theo tỷ lệ nghịch. Chính sự nhận thức gần như đột ngột và nhanh chóng về thế bế tắc kép này đã cho phép diễn ra Hội nghị Genève – nơi mà tất cả các bên liên quan đều có thể dễ dàng trao đổi, và giải quyết trong vỏn vẹn mười lăm tuần một trong những cuộc xung đột vũ trang dài nhất, phức tạp nhất, nhưng cũng vô ích nhất của thời hiện đại.■

Philippe Devillers[1]

Lê Hằng Nga dịch

Chú thích:

[1] Philippe Devillers (1920 – 2016) là nhà báo, nhà sử học chuyên nghiên cứu về lịch sử chính trị Việt Nam và Đông Dương, đồng thời là một trong số các thành viên sáng lập Hội hữu nghị Pháp – Việt năm 1961. (ND)

[2] Một số chính phủ Đông Dương đã đưa ra lập luận rằng, khi chấp nhận chế độ bảo hộ của Pháp, đất nước họ đã tin tưởng rằng Pháp sẽ bảo vệ họ một cách hiệu quả trước sự xâm lược từ bên ngoài. Tuy nhiên, Pháp không thể bảo vệ Đông Dương trước Nhật Bản, các quốc gia Đông Dương cho rằng họ có quyền lấy lại độc lập.

[3] Theo bản Tuyên ngôn Độc lập nước Việt Nam, ngày 2/9/1945.

[4] Về mặt pháp lý, Pháp không coi Nam Kỳ là một phần của Việt Nam mà là thuộc địa của Pháp từ năm 1864. Ngược lại, Việt Nam, đã phải nhượng lại vùng này qua các hiệp ước năm 1862 và 1874, coi đây là “mảnh đất chưa được giải phóng”.

[5] Bản đường lối số 9 ngày 4/1/1947, trích trong P. Devillers, Histoire du Vietnam de 1940 à 1952, Paris, Le Seuil, 1952, tr. 364

[6] Theo Hồ sơ Lầu Năm Góc, Senator Gravel edition, tập 1, Boston, Beacon Press, 1971, tr. 96

[7] J. Foster Dulles đánh giá rằng đây sẽ là “khởi đầu của một thảm họa”. Hồ sơ lầu Năm Góc, đã dẫn, tr. 116

[8] Trích trong J. Lacouture, P. Devillers, La fin d’une guerre. Indochine 1954, Paris, Le Seuil, 1960, tr.123-124

[9] Moskva và Bắc Kinh, trong nỗ lực tìm kiếm nền hòa bình toàn cầu, không muốn làm gia tăng căng thẳng.

[10] Nhà nước Việt Nam của Bảo Đại không được nhắc tới trong các thỏa thuận.

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN