Trong những tháng đầu năm 2025, thế giới sẽ chứng kiến hàng loạt chính phủ mới bắt đầu nhiệm kỳ của mình. Các chính phủ này sẽ phải tìm cách đáp ứng với thách thức kinh tế, xã hội, an sinh, môi trường và công nghệ. Đây là những thách thức vốn dĩ đã không dễ giải quyết, nhưng trong bối cảnh căng thẳng địa chính trị thì việc giải quyết càng khó khăn hơn.
Thế giới phải tìm lời giải đáp cho câu hỏi làm thế nào tăng cường an ninh trong một trật tự đang bị phân mảnh. Hợp tác toàn cầu hiện đang ở điểm rất thấp và xung đột đang ngày càng leo thang ở châu Âu, Trung Đông. Các thể chế quốc tế như Tổ chức Thương mại thế giới và Liên hợp quốc đã không tạo được sự đồng thuận và cũng không hoàn thành vai trò của mình là diễn đàn giải quyết xung đột. Trong khi đó, các nước nam bán cầu và các tổ chức mới được các nước này thành lập lại chưa đưa ra tuyên bố rõ ràng về vai trò của mình là ngăn chặn trật tự thế giới do phương Tây dẫn dắt đang trên đà suy giảm hay chỉ là lực lượng gây rối. Bắc Kinh có vai trò quan trọng trong việc giữ cân bằng giữa các mối quan hệ này vì Trung Quốc là nơi khởi nguồn nhiều sáng kiến và tổ chức như Sáng kiến an ninh toàn cầu, Tổ chức Hợp tác Thượng Hải, BRICS…
Hai cuộc xung đột gây chia rẽ nhất trong năm 2024, cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine và cuộc xung đột giữa Israel và các tổ chức Hồi giáo được Iran ủng hộ ở Trung Đông nổ ra do mâu thuẫn tồn tại từ lâu giữa các bên. Tuy nhiên, việc hai cuộc xung đột này đột nhiên xảy ra trong thời gian này là dấu hiệu chứng tỏ trật tự an ninh thế giới đã bị phân mảnh nên khó có thể tiếp tục duy trì hoà bình vốn có lâu nay hay khó có thể đi đến đàm phán hoà bình một khi xung đột xảy ra.
Câu hỏi tiếp theo là chủ quyền phải được hiểu như thế nào trong bối cảnh hiện tại? Các nước ngày càng ít quân tâm đến trật tự dựa trên quy định tồn tại từ sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Thiếu chia sẻ chuẩn mực, không có thể chế mạnh và hầu như không có cam kết thực thi luật quốc tế thì khó có thể có một môi trường quốc tế hoà bình và ổn định. Có điều chúng ta cần hiểu là với nhiều nước vai trò và ổn định của nền chính trị quốc gia có tầm quan trọng hơn hết. Các nước này sẽ coi những biện pháp kinh tế không có lợi cho mình, những hành động thao túng hệ thống chính trị và điều tiết tiếp cận thị trường, thương mại hay hệ thống thanh toán là những hành động vi phạm Hiến chương Liên hợp quốc và có thể còn vi phạm chủ quyền quốc gia.
Liên minh châu Âu là những nước đã nhượng quyền quyết định chính sách thương mại ngay từ năm 1957 và quyền quyết định này của Uỷ ban châu Âu ngày càng được củng cố thông qua các hiệp ước khác nhau, và chủ quyền kinh tế và tiền tệ được thiết lập thông qua đồng tiền chung trong Liên minh kinh tế và tiền tệ được thành lập năm 1999. Ở phía bên kia là các nước đã từng đấu tranh để giành độc lập. Họ luôn đề cao tôn trọng chủ quyền của mình.
Trong những thập kỷ gần đây, một số nước đã trao chủ quyền và quyền quyết định chính sách cho một số tổ chức quốc tế để cùng xây dựng một trật tự toàn cầu chung. Tuy nhiên, những người phản đối trật tự này lại cho rằng chủ quyền phải được duy trì như hòn đá tảng của quan hệ quốc tế. Ngay cả một số nước ủng hộ việc trao chủ quyền cũng hiểu rằng quy định quốc tế không thể được viết ra và thực hiện trong một thế giới mà chủ quyền không được tôn trọng. Không có những nước mạnh có thể lên tiếng vì người dân của mình và bảo vệ quyền lợi của người dân thì làm sao trật tự thế giới dựa trên quy định lại có thể phát triển được.
Câu hỏi thứ ba là làm thế nào để tiếp tục quá trình toàn cầu hoá. Tại thời điểm hiện tại, có nhiều dấu hiệu cho thấy kỷ nguyên thương mại phát triển tự do toàn cầu đang đi đến chỗ kết thúc. Năm 2023, thương mại toàn cầu giảm 2% so với năm 2022, mức giảm cao hơn nhiều so với những lần giảm trước trừ thời điểm kinh tế thế giới lâm vào suy thoái. Xung đột tăng và nhận thức rằng giá trị toàn cầu chỉ là điều không tưởng thể hiện rõ trong chính sách thương mại, công nghiệp và tài chính. Thế giới đã không thể bảo vệ được chuỗi cung ứng toàn cầu và hệ thống thanh toán đang chịu nhiều áp lực trước sự xuất hiện của các hình thức thanh toán quốc tế mới. Những điểm nghẽn trong chuỗi cung ứng ngày càng nhiều. Năm 2023 và 2024 là Biển Đỏ và Biển Ban-tíc. Rất có thể trong những năm tới sẽ có điểm nghẽn mới.
Ngày càng nhiều nước dùng đến chính sách bảo hộ mâu dịch do tình hình chính trị trong nước và gián đoạn chuỗi gía trị toàn cầu, buộc các nước suy nghĩ lại về hệ thống thương mại toàn cầu. Ngay cả các nước phương Tây trước vẫn đề cao thương mại tự do nay lại dựng hàng rào bảo hộ. Nhiều nhà phân tích cho rằng Đạo luật giảm lạm phát của Mỹ là luật bảo hộ thương mại và đạo luật này cũng đã gây bất bình ở một số nước đối tác với Mỹ. Liên minh châu Âu đã thông qua Cơ chế điều chỉnh ngưỡng Các bon, gây lo ngại với nhiều nước. Trung Quốc cũng đã nhiều năm thực hiện chính sách bảo hộ như Liên minh châu Âu. Tuy nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế mới nổi, cho rằng những biện pháp này không phù hợp, nhưng đó là kết quả của áp lực trong nước ở các nước này nhằm bảo đảm khả năng cạnh tranh của mình thay vì biện pháp leo thang cạnh tranh. Ở Mỹ, khi ông Trump lên làm Tổng thống thì chắc chắn xu hướng bảo hộ thương mại sẽ còn mạnh mẽ hơn.
Các nhà kinh tế cho rằng các biện pháp bảo hộ thương mại có thể đưa đến việc chuỗi cung ứng bị phá vỡ, dẫn đến tình trạng không hiệu quả trong nền kinh tế và áp lực lạm phát mới.
Họ còn cho rằng thế giới hiện đang ở thời kỳ giữa thị trường tự do và kinh tế chịu sự can thiệp của chính phủ. Tuy nhiên, những lãnh đạo đất nước mạnh mẽ và kiên quyết vẫn có thể đưa thế giới đến giai đoạn thương mại công bằng hơn.
Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào cân bằng được thoả thuận thương mại mới với việc bảo đảm thương mại lâu dài giữa các nước. Các nước sẽ phải làm gì trước khả năng Trump sẽ nâng hàng rào thuế quan một khi lên làm Tổng thống. Hiệp định đối tác của Liên minh châu Âu và Mercosur ký ngày 6/12 là một trong những hiệp định đối phó như vậy.
Vấn đề tiếp theo là trí tuệ nhân tạo (AI). Trong những năm vừa qua, AI đã được đưa vào ứng dụng ở các ngành công nghiệp và trong cuộc sống thường ngày. Nhiều nước thực sự vẫn chưa hiểu hết tác động của AI và công nghệ tiên tiến khác. Phát triển công nghệ trước đây đã cho phép các khu vực kém liên kết đuổi kịp các nước khác. Tuy nhiên, tác động của AI khác. Hiện tại, có vẻ như sự phát triển của AI đang tạo ra những đặc quyền cho chủ sở hữu các thuật toán, chủ sở hữu thông số, chủ sở hữu vốn. Nhìn chung, AI có thể có những tác động chính như sau:
Thứ nhất là AI ảnh hưởng đến vấn đề việc làm. Trong tương lai, công nghệ hoàn toàn có thể thay thế được con người để thực hiện một số công việc, điều này đương nhiên dẫn tới người lao động bị mất việc hoặc bị cắt giảm lương. Đây cũng là điều đã xẩy ra trong thời kỳ công nghiệp hoá lần thứ nhất khi máy móc xuất hiện. Trí tuệ nhân tạo sẽ được áp dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực làm gia tăng tình trạng bất bình đẳng trong xã hội. Bên cạnh đó, công nghệ trí tuệ nhân tạo cũng sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh với các quốc gia cung cấp lao động giá rẻ như Phiippine, Indonesia và Việt Nam.
Thứ hai là theo dự báo thì trí tuệ nhân tạo còn có thể đe dọa tới vấn đề an ninh. Nhiều ứng dụng trí tuệ nhân tạo hiện nay có thể sử dụng cho mục đích quân sự hoặc thực hiện tấn công mạng. Công nghệ trí tuệ nhân tạo trong mạng xã hội có thể vô tình hỗ trợ và làm gia tăng các hành vi nguy hại. Tất cả những điều này đặt ra yêu cầu cần có những phương thức bảo mật an ninh mới.
Thứ ba là vấn đề bảo mật dữ liệu. Trí tuệ nhân tạo giống như một quy trình tối ưu hóa bằng dữ liệu với khả năng xử lý một lượng lớn dữ liệu đầu vào. Nhưng đôi khi những dữ liệu này có thể bị lợi dụng, do đó các ứng dụng trí tuệ nhân tạo cần có cách thức vận hành một cách minh bạch từ khâu thu thập đến sử dụng dữ liệu đầu vào.
Thứ tư là dự đoán tương lai của siêu trí tuệ. Khó mà đoán biết trí tuệ nhân tạo sẽ đưa tương lai của chúng ta tới đâu, theo chiều hướng tốt hay xấu. Điều gì sẽ xảy ra nếu máy móc có trí tuệ vượt cả con người. Với sức phát triển của công nghệ như hiện tại, việc tạo ra siêu trí tuệ là điều hoàn toàn có thể.
Thứ năm là vai trò điều hướng công nghệ trí tuệ nhân tạo nên thuộc về ai? Bên cạnh việc phân tích các tác động của trí tuệ nhân tạo, thì một câu hỏi khác được đặt ra: nên trao quyền quản lý cho chính phủ hay khu vực tư nhân? Có chuyên gia cho rằng nếu chính phủ chi phối công nghệ trí tuệ nhân tạo thì sẽ dẫn đến chạy đua vũ trang, do đó khu vực tư nhân nên trở thành người dẫn đường. Tuy nhiên, cũng có ý kiến đề nghị nên trao quyền kiểm soát việc phát triển công nghệ trí tuệ nhân tạo cho các chính phủ.
Đứng trước những thách thức mà công nghệ trí tuệ nhân tạo đem lại như vậy, chính phủ các quốc gia đối mặt với bài toán vừa phải tạo động lực phát triển khoa học công nghệ nhưng vừa phải giải quyết các tác động của trí tuệ nhân tạo. Từ năm 2017, đã có một số quốc gia và vùng lãnh thổ ban hành các quy định, chính sách và đề án đẩy mạnh phát triển công nghệ trí tuệ nhân tạo với tham vọng trở thành người đi đầu, mở ra một thị trường mới mang lại giá trị kinh tế cao. Bên cạnh những phương thức khuyến khích đổi mới sáng tạo công nghệ trí tuệ nhân tạo thì các quốc gia cũng cần đề ra nhiều biện pháp cụ thể để ứng phó với những thách thức mới đặt ra, thi dụ như tìm ra những tính toán để giảm thiểu tác động cua biến đổi khí hậu hay tìm ra những biện pháp để bảo vệ sức khoẻ và an toàn của công nhân. Với thế giới, điều quan trọng là bảo đảm cho các nước chưa có công nghệ được tiếp cận với AI.
Thế giới hiện không chỉ đang tìm cách phát huy tiềm năng của AI mà còn tìm cách chủ động phòng ngừa những nguy cơ tiềm ẩn trong việc sử dụng AI. AI có thể bị lạm dụng cho mục đích xấu và do vậy các nước phải tìm ra các phương thức mới có hiệu quả để bảo đảm những rủi ro này được quản lý.
Vấn đề cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là làm thế nào để phát triển năng lượng mới để chống lại biến đổi khí hậu. Chúng ta đang ở thời điểm nóng nhất từ trước đến nay. Theo Cơ quan theo dõi biến đổi khí hậu của châu Âu Copernicus thì năm 2024, nhiệt độ trái đất đã tăng hơn 1,6 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp hoá. Năm 2024 cũng được coi là năm nóng nhất từ trước đến nay. Điều này làm trái đất mất đi đa dạng sinh học, gây ra tình trạng suy dinh dưỡng và di dân hàng loạt. Tổng thư ký Liên hợp quốc đã từng cho rằng thế giới chúng ta đang bước vào thảm hoạ. Tuy vậy, không phải tất cả các nước đều phải chịu tác động như nhau. Trên thực tế, những nước ít gây ra tình trạng trái đất nóng lên lại là những nước chịu tác động nhiều nhất. Điều này được thấy rõ nét nhất trong việc các nước đã không huy động được được quỹ để giảm phát thải và giúp các nước đang phát triển đối phó với biến đổi khí hâu. Mục tiêu đề ra từ năm 2020 của hội nghị các bên trong khuôn khổ các hội nghị về biến đổi khí hậu là huy động 1000 tỷ đô la cho các nước đang phát triển đã không đạt được. Tại COP 29, các nước chỉ có thể cam kết được 300 triệu đô la cho mục đích này.
Trong khuôn khổ của hội nghị, đã có nhiều ý tưởng được đề xuất về đầu tư vào lĩnh vực năng lượng và hoán đổi nợ để thực hiện các dự án khí hậu cũng như công cụ chính sách dựa trân thị trường tự do. Trong năm 2025 cũng như các năm sắp tới, thế giới sẽ chú ý đến những cam kết đã đạt được tại Hội nghị các bên lần thứ 28 (COP 28), đặc biệt là cam kết 5-7 nghìn tỷ đô la để xanh hoá kinh tế toàn cầu vào năm 2030 và giàm dần việc sử dụng nhiên liệu hoá thạch.
Trong năm 2025, các nước phải tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi nêu trên. Theo lẽ thông thường câu trả lời của các nước sẽ rất khác nhau do trình độ phát triển và nhận thức của mỗi nước khác nhau. Tuy nhiên, nếu như câu trả lời là đối lập nhau thì sẽ có nguy cơ là những vấn đề mà các nước đang mong muốn giải quyết sẽ lớn hơn thay vì nhỏ hơn như mong đợi. Giữa những bất công, không nhất quán và nhiều tiếng nói khác nhau, việc tìm kiếm tiếng nói chung là quan trọng hơn bao giờ hết.
Với Việt Nam chúng ta đang trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng, điều quan trọng hiện nay là xác định vị thế của chúng ta trên trên trường quốc tế cả về chính trị lẫn kinh tế để từ đó tìm ra lời giải đáp cho những câu hỏi trên. Lời giải đáp đúng sẽ giúp nước ta tiếp tục vươn mình phát triển.■