
Năm 1967, hai nhà báo Peter White và Winfield Parks của tạp chí National Geographic đã thăm Huế để tìm hiểu về niềm tin, lịch sử và lối sống của người Việt – những gì ẩn sau hàng loạt tin tức về chiến tranh tràn ngập trên các trang báo Mỹ. Không chỉ chứa đựng những miêu tả, nhận xét tinh tế về văn hóa Việt Nam, phóng sự của hai nhà báo này, xuất bản tháng 2/1967, còn bao gồm nhiều bức ảnh màu sống động gợi nhớ về Huế của một thời đã xa. Tạp chí Phương Đông trân trọng giới thiệu với bạn đọc trích đoạn của phóng sự này.
*
Khi bạn tôi, ông Thiện, một biên tập viên người Việt, hỏi rằng liệu ông ấy có thể nói hoàn toàn thẳng thắn được không, tôi đã nói được chứ, xin hãy cứ nói.
“Vâng”, ông ấy nói, “người Mỹ các anh gửi nhiều binh sĩ đến đất nước chúng tôi để chiến đấu, và các anh đã tiêu nhiều tiền ở đây, nhưng các anh thực sự không biết nhiều về người dân chúng tôi”.
Thành thật mà nói, tôi phải thừa nhận rằng ông ấy không hoàn toàn sai. Chính những khía cạnh nổi bật trong tình hình Việt Nam – chiến tranh không ngừng, thống kê tổn thất hàng ngày – đã khiến người Mỹ ở quê nhà bận tâm khi họ đọc báo và xem tivi. Khói lửa chiến tranh đã che giấu chính con người Việt Nam – niềm tin của họ, lịch sử của họ, lối sống của họ. Đó là lý do tại sao tôi đến Huế.
Tại sao tôi chọn Huế? Với dân số 105.000 người ở góc Đông – Bắc của Nam Việt Nam, thành phố này hiện chỉ là một trong số 43 tỉnh lỵ của đất nước. Nhưng đối với nhiều người Việt Nam, Huế – từng là nơi ngự trị của các vị Hoàng đế – vẫn là trung tâm tri thức và tâm linh của toàn thể Việt Nam, cả phía Bắc và Nam vĩ tuyến 17.
Ở đây còn tồn tại nhiều đền chùa, cung điện và lăng tẩm đẹp nhất của Việt Nam. Huế cũng là một trung tâm học tập, với hơn 1.000 sinh viên đại học. Và không giống như Sài Gòn – nơi có hàng chục nghìn người nước ngoài tụ tập – Huế vẫn gần như 100% là người Việt. Trong sự nhộn nhịp của thành phố cảng Đà Nẵng gần đó và trong sự yên tĩnh ở các khu bệnh viện của nó, tôi đã thấy rõ nhất người nước ngoài đang ảnh hưởng đến cuộc sống và thái độ của người Việt Nam như thế nào. Nhưng điều mà tôi hân hạnh được chứng kiến bây giờ, ở Huế, là một biểu hiện của truyền thống gia đình và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên không hề thay đổi.
Tôi đứng bên trong Hoàng thành, tại ngôi đền được gọi là Thế Miếu, nơi có mười án thờ lấp lánh màu vàng và màu đỏ – mỗi án thờ được dựng lên để thờ một vị Hoàng đế đã khuất của triều đại nhà Nguyễn, vương triều cuối cùng cai trị Việt Nam. Hôm nay là buổi kỷ niệm 83 năm ngày mất của Hoàng đế Tự Đức.
“Chúng tôi thắp nến để mời linh hồn của Hoàng đế trở lại đây”, một nam thanh niên trong chiếc khăn xếp màu đen và chiếc áo rộng bằng lụa đen thì thầm. Anh tên là Bảo Toại, một thành viên Hoàng tộc. Hậu duệ kế vị cuối cùng của Tự Đức chỉ mới từ bỏ ngai vàng cách đây 22 năm.
Một chục người đàn ông – tất cả đều mặc áo dài như Bảo Toại – lặng lẽ đi lại với những ngọn nến được thắp sáng, cho đến khi toàn bộ ngôi miếu sáng lên êm dịu. Phía sau chúng tôi, bên ngoài những cánh cửa đang mở, mưa rơi du dương.
Án thờ Hoàng đế Tự Đức và một bàn bên cạnh có bát hương, hoa phượng, những đĩa chuối, quế, quả trứng gà, kẹo; những tách trà và các ly rượu trắng; và 32 bát với cá, thịt, rau và cơm. “32 món ăn yêu thích của Hoàng đế”, Bảo Toại cho hay.
Một cụ già bước vào – Quan Dương Yêm. Ông có phẩm cấp như một nam tước, mang đôi hia mềm màu đen và một chiếc mũ mềm mại thêu màu xanh lam. Ông phủ phục, trán chạm sát chiếc chiếu trải bên dưới án thờ. Bên cạnh ông là một thanh niên quỳ gối, và từ một bài vị có khung màu vàng và đỏ, anh ta đọc về cuộc đời Tự Đức. Người thanh niên rời đi. Quan Dương Yêm cúi lạy ba lạy nữa rồi lặng lẽ lùi đi.
Âm thanh chiến tranh phá vỡ không khí yên bình của ngôi đền
Tôi cũng rút đi, tiến vào một cái sân nơi những con kỳ lân bằng đồng lóng lánh trong mưa. Hai chiếc trực thăng của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ bay lượn rầm rầm trên đầu. Trên khắp các hào lũy của Huế văng vẳng những những tiếng nổ buồn tẻ – súng cối và lựu pháo đang hoạt động trong cuộc giao tranh ở một ngôi làng gần đó.
Tôi đã trở lại thực tế bùng nổ của cuộc sống hàng ngày ở Việt Nam Cộng hòa. Tuy nhiên, buổi lễ bình lặng mà tôi vừa quan sát được không kém phần điển hình cho cuộc sống miền Nam Việt Nam hiện nay so với những âm thanh bạo lực bên kia những bức tường thành. Trên thực tế, những gì tôi đã thấy ở Thế Miếu cũng diễn ra trên khắp đất nước hàng trăm lần mỗi ngày – trong những khung cảnh ít hoành tráng hơn, ít lễ vật hơn nhưng lại mang ý nghĩa gia đình sâu sắc như nhau. Ông Thiện bạn tôi đã cảnh báo tôi không được phạm sai lầm về điều đó.
“Trong ngôi nhà truyền thống Việt Nam, vị trí quan trọng nhất là bàn thờ gia tiên của gia đình – cứ mười nhà thì có bảy nhà như vậy”, ông nói. “Ở nhiều nhà, bàn thờ được đặt ở giữa phòng khách. Anh thấy đấy, chúng tôi tin rằng tổ tiên của chúng tôi vẫn tiếp tục hiện diện ở bên gia đình. Đây không chỉ đơn giản là một cách nói tu từ hay một sự tưởng tượng mơ mộng. Đối với chúng tôi đó là một thực tế. Tương lai, hạnh phúc của một người phụ thuộc vào việc giữ cho linh hồn tổ tiên được an vui”.
Ông Thiện đã lấy bằng tiến sĩ chính trị học tại Đại học Geneva và đã từng du học ở Anh và Mỹ.
“Tôi được đào tạo ở châu Âu và châu Mỹ”, ông nói. “Nhưng tôi được giáo dục bên trong những lũy tre của nhà tôi ở Huế, bởi cha mẹ, anh chị em và anh chị em họ, bởi những người giúp việc, những người chăm nuôi và những đầu bếp của chúng tôi. Họ đã truyền lại những giá trị còn khắc sâu trong tư tưởng và tâm hồn người Việt chúng tôi. Không có sự học hỏi nào có thể xóa bỏ những niềm tin này, bất kể chúng tôi có thể đã ở nước ngoài bao lâu hay cho dù nền văn hóa và văn minh của họ có vẻ sáng chói đến đâu. Hãy nhớ rằng, trên nhiều khía cạnh, chúng tôi có cảm nhận khác các anh”.
Đối với tôi, một người Mỹ, hầu như không cần phải nhấn mạnh tầm quan trọng của cảm nhận của người Việt. Rốt cuộc, những điều này chẳng phải là chìa khóa cho hòa bình ở Việt Nam hay sao? Và chúng ta cũng như người Việt Nam, chẳng phải đều mong muốn một nền hòa bình trong danh dự hay sao?
Số binh lính tử trận của chúng tôi ở đây đã vượt quá con số 4.050 người trong Cách mạng Hoa Kỳ. Tất cả các dấu hiệu đều cho thấy rằng chẳng bao lâu nữa cuộc chiến ở Việt Nam có thể có sự tham gia trực tiếp của nửa triệu người Mỹ có vũ trang, và ngốn gần một phần năm ngân sách quốc gia của Mỹ – với tốc độ hai tỷ đô la một tháng.
Nhịp điệu lặng lẽ thấm nhập cuộc sống ở Huế
Ông Thiện bảo tôi rằng Huế là nơi một người nước ngoài có thể hiểu rõ nhất về truyền thống Việt Nam, những điều khiến người ta xúc động sâu sắc nhất.
“Tôi hy vọng anh sẽ thích nơi này”, ông nói. “Không có tòa báo, không có ngân hàng, không có nhà máy ngoại trừ một nhà máy xi măng. Nhưng Huế có cảnh quan đẹp nhất của chúng tôi và những cô gái đẹp nhất của chúng tôi. Khi trăng tròn, anh phải dành buổi tối đi thuyền tam bản trên sông Hương”.
Tôi đến vào thời điểm hoa phượng và hoa sen nở rộ, khi ngày qua ngày dòng sông lấp lánh màu xanh thẳm dưới bầu trời chói chang và nhiệt kế ở khoảng 37°C cho đến chập choạng tối. Sau đó, độ ẩm giảm xuống như một chiếc khăn ướt sũng nước, và những con muỗi lơ lửng như những làn khói nhỏ màu xám. Điều làm tôi ngạc nhiên là một thành phố lại toát ra vẻ yên bình như vậy.
Tất cả dường như bất động từ giữa trưa và ba giờ chiều. Nhưng vào những giờ ban ngày khác, mọi thứ diễn ra trong một nhịp điệu yên tĩnh: những chiếc xe đạp, với những người đàn ông mặc áo sơ mi phanh ngực và những cô gái với quần dài mượt mà mặc dưới chiếc đầm dài xẻ tà gọi là áo dài, mái tóc đen nhánh dài chấm vai hoặc thậm chí dài đến thắt lưng; đàn ông và phụ nữ đẩy người về phía trước trên những mái chèo dài của thuyền tam bản; những người phụ nữ trong bộ đồ bà ba với đòn gánh bằng tre trên vai, vận chuyển những chiếc thúng đựng đầy trái cây và cải xoong, vịt và gà, chổi và gạch cùng hàng trăm thứ khác có thể bán được.
Tất cả Huế dường như được dẫn dắt một cách dịu dàng bởi một động mạch chính duy nhất – chậm rãi, bền bỉ, như thể cuộc sống ở đây chắc chắn sẽ tiếp diễn mãi mãi như thế, không bao giờ tăng tốc, không bao giờ chậm lại.
“Cuộc sống ở đây vẫn thế vào mùa đông, khi mưa nhiều cả ngày lẫn đêm trong ba tuần liền”, bạn tôi Tráng [?], một luật sư trẻ cùng đi với tôi với tư cách thông dịch viên, cho biết. “Không gì có thể lay chuyển được những người này. Ở Việt Nam, chúng tôi nói rằng nhìn chung người miền Bắc, từ Hà Nội, rất linh hoạt. Người miền Nam, từ Sài Gòn, dễ nổi nóng nhưng không giận lâu. Nhưng những người này ở miền Trung, từ Huế, thì sao? Bướng bỉnh! Cứng đầu!”.
Chắc chắn rằng ba miền không nói cùng một ngôn ngữ, và sự khác biệt không đơn giản chỉ là vấn đề giọng nói. Tráng, sinh ra ở Hà Nội và hiện đang sống ở Sài Gòn, đôi khi phải tra từ điển.
“Hãy lấy ví dụ một từ đơn giản là ‘tại sao’”, anh nói. “Ở Sài Gòn, là cớ sao. Ở Hà Nội, tại sao. Ở Huế, răng rứa. Nhiều người miền Bắc đã vào Sài Gòn, vì vậy ở đó người ta hiểu khá rõ từ ngữ của cả miền Bắc và miền Nam. Nhưng không phải ở đây!”.
Cũng như vậy, Huế là biểu tượng của sự thống nhất Việt Nam. Ông cố của Tự Đức, Hoàng đế Gia Long – người đã củng cố đất nước sau hai thế kỷ nội chiến và phân hóa chính trị – đã đặt kinh đô tại Huế vào năm 1802 và bắt đầu xây dựng Kinh thành vẫn còn sừng sững cho đến ngày nay. Một nửa diện tích sáu dặm vuông của thành phố được bao bọc bởi những bức tường thành được bảo tồn nguyên vẹn của tòa thành khổng lồ này, có các hào nước và các pháo đài tạo thành một hình vuông vắn. Bên trong hình vuông đó là một vuông đất nhỏ hơn được vây kín, với các hào nước và tường thành dài gần 700 thước mỗi cạnh, được gọi là Đại Nội hay đơn giản là Hoàng thành.
Bài thơ truyền đạt ít nhất 64 ý nghĩa
Giống như cả thành phố Huế, Hoàng thành là một biển cây cối. Không chỉ có những cây hoa phượng mà còn có cây ổi, sa kê, nhãn, đu đủ, măng cụt, lựu, dừa, hoa đại, cây đa và cây thông lá mềm. Đi qua những khẩu súng thần công bằng đồng và tượng quan lại bằng đá, tôi đến một ngôi đình nay là viện bảo tàng, đi lang thang giữa những đồ vật quý giá bằng đồng, sơn mài, đồ sứ và những trang phục hoàng gia bằng lụa vàng. Trên tường treo bài thơ của Hoàng đế Thiệu Trị, thân phụ của vua Tự Đức. Bài thơ viết bằng Hán tự được khảm xà cừ trên mặt gỗ sẫm màu, xếp thành một vòng tròn tỏa ra tám dòng.
“Một trong những biểu hiện tuyệt vời nhất của triết học phương Đông”, người quản thủ bảo tàng, ông Ưng Tương [?], cho hay. Bài thơ viết gì? Ông Tương cười: “Làm sao tôi nói cho ông biết được? Nó có thể đọc theo ít nhất 64 cách”.
Tôi băng qua cầu Kim Thủy vào một sân lớn, và sau đó vào Điện Thái Hòa. Trên một bục cao có ngai vua màu vàng đỏ lấp lánh, khảm gương. “Ông thấy đấy, các mảnh gương xua đuổi ma quỷ”, Tráng nói.
Khu vực trong cùng của Hoàng thành, Tử Cấm Thành, từng được dành riêng cho gia đình trực tiếp của hoàng đế. Trước đây, những người vào khu vực này mà không được phép của vị quan cai quản đều bị xử tử. Tôi và Tráng có giấy thông hành do ông Nguyễn Văn Diệp, Chánh văn phòng Sở Du lịch Huế, ký.
Hầu hết các tòa nhà đã bị phá hủy cách đây hai mươi năm, trong chiến tranh chống Pháp, và tại vị trí các căn buồng riêng của hoàng đế bây giờ là một khu đất trải rộng đang được xới lên. Một người làm vườn đang bón phân cho đất để trồng hoa loa kèn trắng.
Trở lại sân lớn, Đoàn ca vũ Cung đình đã sẵn sàng. Để được xem buổi biểu diễn đặc biệt này, tôi đã được sự chấp thuận của Hội đồng Hoàng tộc và của Trung tá Phan Văn Khoa, thị trưởng thành phố Huế. Trung tá Khoa cũng là tỉnh trưởng, đại diện cho chính quyền Sài Gòn, đã ủng hộ đoàn ca vũ này vì văn hóa Việt Nam.
“Chúng tôi tuyển chọn họ vì giọng hát, ngoại hình và trí thông minh”, cô giáo Hồ Thị Huệ cho biết. “Họ bắt đầu từ năm 15 tuổi và trình diễn trong vài năm. Các nam thanh niên bị trưng binh cho nghĩa vụ quân sự ở tuổi 20, còn các cô gái kết hôn ở cuối tuổi vị thành niên”.
Năm nhạc công mặc áo lam sáng bóng, ở đây gọi là “màu lam Huế”, chơi trống và một loại kèn gọi là kèn bầu, nhạc trưởng đánh vào một chiếc chiêng bằng đồng nhỏ xíu, 20 cô gái và 6 chàng trai vừa hát vừa múa. Họ mặc áo mũ nhiều lớp đến mức tôi không thể phân biệt các cô gái với các chàng trai. Họ xếp thành một hình chóp ba tầng, một số đứng trên vai những người khác.
Thật mê hoặc, nhưng tôi khó có thể thưởng thức, vì trời nóng. Sao họ lại có thể tràn đầy năng lượng trong những bộ quần áo nóng bức đó?
Cô giáo huấn luyện nói: “Cứ tập nhiều rồi sẽ quen”.
Tôi dừng lại ở văn phòng của Hội đồng Hoàng tộc để bày tỏ lời cảm ơn. Có bao nhiêu thành viên hoàng tộc còn sống hiện nay? “Khoảng một trăm ngàn người”, Công chúa Lương Linh cho hay. Không thể tin được, nhưng đó là sự thật – hội đồng có một cuốn sổ ghi tất cả các tên họ. Tất nhiên, nhiều người là họ hàng xa. Dù sao thì cách đây một thế kỷ, một Hoàng tử đã sinh ra 72 người con.■ (còn nữa)
Peter White & Winfield Parks
Ngô Bắc (dịch)