Đêm ngày 19/12/1946, người dân Hà Nội đồng lòng, từng góc phố, từng mái nhà đều trở thành chiến lũy, mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Chín năm ròng trường kỳ kháng chiến, Hà Nội kiên nhẫn chờ ngày đoàn quân trở lại. Tạp chí Phương Đông giới thiệu bản dịch Chương 12, phần III cuốn La guerre en Indochine: 1945 -1954 (Cuộc chiến ở Đông Dương: 1945 – 1954) xuất bản năm 2003 của tác giả Geogres Fleury thuật lại tình hình những ngày đông khói lửa ấy. Tiêu đề bài viết do Tòa soạn đặt.
Sau khi thắng trận ở Hải Phòng tháng 11 năm 1946, người Pháp đã tổ chức lại toàn bộ lực lượng ở Đông Dương thành bốn bộ chỉ huy quân sự lớn, đặt dưới quyền của Tổng chỉ huy – Tướng Valluy: Bộ chỉ huy Quân sự Bắc Kỳ đặt tại Hà Nội, Trung Kỳ tại Huế, Lào tại Viêng Chăn, Nam Đông Dương (gồm các vùng lãnh thổ nằm ở phía nam vĩ tuyến 16: Nam Kỳ, các vùng đất của người Thượng và Campuchia) đặt tại Sài Gòn. Khi người Pháp tổ chức lại Đông Dương như vậy, ông Hồ Chí Minh – nhằm xoa dịu phe kiên quyết trong phong trào của mình – buộc phải nhường một phần quyền chủ động cho những người muốn trả thù thất bại hồi tháng 11. Ủy ban kiểm soát ở Hà Nội liên tiếp ghi nhận các vụ va chạm và khiêu khích. Lãnh đạo các lực lượng dân quân Việt Nam không còn kiểm soát nổi kỷ luật của binh lính – những người ngày càng cảm thấy bức xúc với tình hình. Người Pháp ở Hải Phòng và Hà Nội hiếm khi dám đến các khu buôn bán, ngay cả các cuộc tuần tra bộ cũng giảm hẳn. Mỗi tối, đường phố đầy xe tăng và xe bọc thép tuần tra. Khắp nơi, nhiều người Việt Nam chống cộng hoặc thân Pháp, thậm chí cả những nhân sĩ có uy tín, bị bắt giam. Trong các cơ quan tình báo, người ta bóng gió về một cuộc nổi dậy mới sắp diễn ra.

Giữa lúc căng thẳng như vậy, Jean Sainteny trở lại Hà Nội để thảo luận với phía Việt Minh, bên chưa chấp nhận các điều kiện khắc nghiệt của thỏa thuận đình chiến do tướng Morlière – chỉ huy lực lượng quân Pháp tại miền Bắc Việt Nam – đề xuất và Valluy áp đặt. Đặc phái viên của Pháp chỉ gặp ông Hồ Chí Minh khi có mặt các Bộ trưởng cùng tham dự. Còn Morlière thì nhiều lần trao đổi với ông Võ Nguyên Giáp, rồi với đặc phái viên Quân sự Ủy viên hội Hoàng Hữu Nam. Ông nhận thấy họ đều đang rối bời. Trong một cuộc trao đổi riêng, ông Nam thậm chí còn nhờ Morlière tìm một giải pháp “danh dự” cho Chính phủ Việt Minh, vì họ không thể chấp nhận những điều kiện đã bị áp đặt bằng vũ lực ở Hải Phòng mà không bị mất uy tín vĩnh viễn trước quân đội. Mặc dù bản thân ông Hồ Chí Minh dường như vẫn muốn tìm giải pháp hòa bình cho xung đột, nhưng một bộ phận trong đảng – những người kiểm soát báo chí và đài phát thanh ở Hà Nội – lại cương quyết chiến đấu.
Trước tình hình các cuộc đụng độ liên tục gia tăng, trong khi các khu phố lao động ở Hà Nội đã dựng rào chắn chặn ngang các ngã tư, ngày 18/12/1946, Tướng Morlière viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam yêu cầu tháo gỡ các chướng ngại này. Bộ trưởng của ông Hồ Chí Minh lập tức trả lời rằng các rào chắn ấy chỉ nhằm kiềm chế bớt sự nóng nảy của các lực lượng phụ trợ của quân đội Việt Nam. Chúng chủ yếu dựng lên để trấn an người dân Việt, những người lo sợ sẽ rơi vào tình cảnh giống như người dân Hải Phòng – bị pháo binh Pháp tấn công bất ngờ. Trong khi các dấu hiệu báo trước một cuộc đối đầu vũ trang mới ngày càng rõ rệt từng giờ thì Đô đốc Thierry d’Argenlieu, trong một bản chỉ đạo ngày 8/12, thừa nhận:
“Lực lượng hiện có của chúng ta ở Bắc Kỳ không cho phép giải quyết đồng thời các vấn đề quân sự nếu một cuộc xung đột trên diện rộng xảy ra. Chúng ta chỉ có thể giải quyết được khi một phần viện binh từ chính quốc tới, tức khoảng ngày 15/1/1947. Cho đến khi viện binh đến, cần tránh làm xung đột lan rộng”.
Chuyển từ những lời đe dọa trong các tuần trước sang thái độ hòa giải, vị Cao ủy Pháp tại Đông Dương cũng đề nghị trao đổi: cho phép lưu thông tự do trên tuyến đường Hải Phòng – Hà Nội đổi lấy việc rút quân khỏi Phủ Lạng Thương [Bắc Giang – ND], Bắc Ninh và Nam Định – nơi một tiểu đoàn Pháp đang bị hơn 5.000 quân Việt Minh bao vây. Trong khi Jean Sainteny vẫn đang đàm phán, Tướng Morlière – bị kéo qua kéo lại giữa các luồng ý kiến từ Sài Gòn – vẫn nỗ lực duy trì chính sách của bản Hiệp định Sơ bộ mặc dù hầu hết các sĩ quan đều chỉ trích, đa số những người này vốn ủng hộ giải pháp mạnh tay.
Trong khi đó, tại Pháp vừa bầu ra 618 nghị sĩ Quốc hội, trong đó Đảng Cộng sản có 179 ghế và 5 liên minh trở thành nhóm lớn nhất. Ở Việt Nam, quân Việt Minh dùng pháo 75mm tấn công tàu Pháp ở khu vực Hải Phòng, đồng thời tấn công dữ dội căn cứ Đồ Sơn trong đêm 15 và 16/12/1946. Họ chỉ chịu rút lui vào buổi sáng, sau khi tuần dương hạm Dumont – d’Urville bắn tổng cộng 135 phát đạn 138mm.

Ngay khi cuộc tấn công này bị đẩy lùi, Léon Blum – cựu Thủ tướng Mặt trận Bình dân năm 1936 – thành lập chính phủ mới, với André Le Troquer làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Marius Moutet – một trong những người ký Hiệp định Sơ bộ – tiếp tục giữ chức Bộ trưởng Bộ Hải ngoại Pháp, còn Pierre Mayer trở thành Thứ trưởng Bộ Quân đội trong chính phủ cánh tả này. Được đa số những người mới trong chính phủ Pháp khích lệ, ông Hồ Chí Minh đã gửi điện tín yêu cầu mở lại đàm phán ngay sau khi nội các này được thành lập.
Jean Sainteny không phản đối việc nối lại đàm phán, nhưng vào sáng 19/12/1946, ông đặc biệt lo ngại về tình trạng các vụ ám sát ngày càng gia tăng ở Hà Nội. Về vấn đề này, ông gửi tới ông Hồ Chí Minh một bức thư chính thức:
“Thưa Chủ tịch,
Tôi nhận được từ ông Nam – đặc phái viên của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam – một bức thư đề ngày 16/12, nhắc rằng tôi là người “khởi xướng thỏa thuận ngày 6/3” và “tha thiết kêu gọi sự thấu hiểu chính trị” của tôi.
Thư này đến cùng lúc với những chi tiết về các vụ việc xảy ra ngày 17 tại Hà Nội. Tôi được biết vụ tấn công nhằm vào những người trên một xe tải tiếp tế tại phố Jambert [nay là phố Nguyễn Trường Tộ – ND]. Đây quả thực là một vụ ám sát, lẽ ra phải bị trừng phạt từ lâu như mọi hành vi tương tự, nếu tôi không kiên trì đặt niềm tin vào chính phủ của ngài.
Tôi cũng được biết rằng hai thường dân Pháp đã bị một toán côn đồ có vũ trang tấn công ngay tại nhà riêng: một người bị giết, người còn lại – một cô gái trẻ – bị thương nặng.
Trong bất kỳ quốc gia nào được quản lý bình thường, vụ ám sát này đã bị trừng phạt ngay lập tức. Nhưng giống như những vụ trước đây, nó có nguy cơ sẽ không được xử lý từ phía ngài. Hơn nữa, vụ này được thực hiện bởi những người thuộc đơn vị bán quân sự mà chính phủ ngài – nếu không trực tiếp kiểm soát – thì vẫn che chở bằng uy quyền của mình.
Ông Nam bày tỏ trong thư “các vụ việc gia tăng do các thành phần của quân đội Pháp gây ra”. Như ngài biết, điều này đáng tranh cãi, và một lần nữa tôi bác bỏ khẳng định đó. Nhưng những tội ác ghê gớm mà chúng ta lên án thì không thể chối cãi được là do các thành phần nằm dưới quyền chính phủ Việt Nam.
Vì vậy, tôi buộc phải thông báo rõ:
Tôi mong chính phủ Việt Nam truy tìm, bắt giữ và trừng phạt những kẻ gây ra vụ ám sát này – nhằm vào người dân không vũ trang – trong vòng 48 giờ kể từ khi nhận được thư này.
Quá thời hạn đó, tôi sẽ một lần nữa lấy làm tiếc về sự bất lực hoặc thiếu thiện chí của lực lượng cảnh sát phía ngài, và tôi sẽ tự cho phép mình thực hiện mọi biện pháp cần thiết để tìm ra thủ phạm và ngăn chặn các tội ác tái diễn, mà theo chính lời ông Nam – hoàn toàn không phù hợp với tinh thần của thỏa thuận”.
Tuy nhiên, có lẽ ông Hồ Chí Minh không bao giờ đọc bức thư này của Jean Sainteny. Sau một số vụ ám sát như đã kể trong bức thư trên, cùng các vụ đụng độ quân sự như ở Đồ Sơn, cuộc khởi nghĩa đã được dự báo từ nửa tháng trước nay bùng nổ.
Lúc 20 giờ, nhà máy điện Hà Nội bị phá. Các nhóm vũ trang được chuẩn bị kỹ lưỡng từ nhiều ngày trước, theo ngõ tối tiến tới những mục tiêu đã được trinh sát từ lâu – đúng như lời dự báo của Đại úy Vernières. Những toa tàu hàng chặn ngang các đường ray ngay trước doanh trại, nơi binh lính Pháp đã được Tướng Morlière đặt vào tình trạng báo động từ 17 giờ.
Những quân Tự Vệ đã ẩn náu nhiều ngày ở các khu ngoại ô khó tiếp cận, giờ tràn vào thành phố. Những người khác, lấy lý do nhập viện, biến bệnh viện thành các cứ điểm phòng thủ.
Sau những đợt tấn công đầu tiên không thể ngăn chặn, một số “ốc đảo phòng thủ” bắt đầu hình thành. Jean Sainteny quyết định tới gặp Tướng Morlière ở Hà Nội. Ông lên một chiếc xe bọc thép do binh sĩ Le Roullier lái. Hạ sĩ Garland chỉ huy chiếc xe, xạ thủ Dicquemare đảm nhiệm việc bảo vệ, tiến vào tới phố Paul Bert [nay là phố Tràng Tiền – ND] thì trúng mìn. Các chiến sĩ Việt Minh ném lựu đạn vào chiếc xe đã mất khả năng di chuyển. Jean Sainteny bị trúng nhiều mảnh đạn. Chiếc xe bọc thép nhanh chóng bốc cháy dữ dội. Toàn bộ người trong xe đều bị thương, cố gắng thoát ra ngoài trong khó khăn. Người lính thông tin Cousinou lăn mình trên vỉa hè để dập những ngọn lửa đang bén vào bộ quân phục. Jean Sainteny, bị thương nặng ở lưng và hông phải, theo phản xạ rút súng ngắn và chờ kẻ địch tiến tới tung đòn kết liễu.
Giữa con phố vắng lặng, chiếc xe bọc thép bất ngờ nhả hàng trăm viên đạn. Quân Việt Minh rút lui, không hay biết rằng đó là số đạn dự trữ của xe đang phát nổ từng loạt. Năm người Pháp bị cô lập trên vỉa hè phố Paul Bert trong hai tiếng, cho đến khi một đội tuần tra cơ giới đến giải cứu. Jean Sainteny được đưa về trạm y tế để sơ cứu. Riêng hạ sĩ Garland không thể qua khỏi vì vết thương quá nặng.

Bất chấp sự chống trả của một số thường dân vũ trang từ sau các biến cố tháng 11, chỉ trong vài giờ đã có gần 60 người trong cộng đồng châu Âu thiệt mạng. Các nhóm chiến đấu tỏa đi khắp thành phố.
Tướng Morlière tổ chức giải tỏa các khu dân cư châu Âu. Theo một kế hoạch đã chuẩn bị từ lâu, quân của ông đưa khoảng 7.000 người Âu và người lai Âu – Á về Hà Nội. Sau đó, ông điều một đơn vị bộ binh bảo vệ sân bay Gia Lâm, cách thủ đô vài km về phía bên kia sông Hồng, nối qua bằng 1.600m vòm thép của cầu Long Biên vẫn đang nằm dưới sự kiểm soát của lực lượng Pháp.
Tại Sài Gòn, Tướng Valluy kiềm chế mong muốn nhanh chóng tiến ra Hà Nội để nối lại các cuộc đàm phán đã bắt đầu từ 6 tháng trước với ông Hồ Chí Minh và ông Võ Nguyên Giáp. Kể từ sau cuộc nổi dậy ở Hải Phòng, ông cho rằng “niềm tin đã không còn là điều phù hợp nữa”. Ông điều một tiểu đoàn cơ động của Sư đoàn Bộ binh Thuộc địa số 9 tới hỗ trợ Tướng Morlière thông qua một cầu hàng không thường trực giữa Cát Bi và Gia Lâm, đồng thời gửi cho quân lính mệnh lệnh tác chiến sau:
“Quân đội của một Chính phủ đã từ chối tình hữu nghị của chúng ta và vừa tấn công các bạn một cách phản bội. Chúng đã liều lĩnh tung toàn bộ lực lượng vào trận chiến. Cú đánh này thật nặng nề, nhưng hãy cố chịu đựng – các bạn từng trải qua những tình huống còn khắc nghiệt hơn. Hãy tiết kiệm phương tiện, đặc biệt là đạn dược, mỗi viên đạn phải được dùng đúng với giá trị của nó. Sẽ sớm có quân tiếp viện và tiếp tế; chúng ta sẽ dồn mọi nỗ lực vào đó, và những đạo quân man rợ này sẽ bị khuất phục hoàn toàn. Nào anh em: Sư đoàn Bộ binh Thuộc địa số 9, lính lê dương, lính dù, thiết giáp, thủy quân, không quân – như ở Pháp, luôn là những người chiến thắng!”
Trong khi Hà Nội đang rực lửa chiến đấu, Hải Phòng vẫn yên ắng một cách lạ thường. Để đảm bảo giao thông trên đường Thuộc Địa số 5 – con đường mà toàn bộ các cây cầu đều bị phá hoại và ở nhiều đoạn bị đào hào theo hình “phím đàn” – Trung đoàn Bộ binh Thuộc địa Maroc nhận lệnh tiến về Hà Nội để hội quân với lực lượng của Sư đoàn Thiết giáp số 2. Lính thủy đánh bộ và các phương tiện bọc thép được đưa tới vị trí xuất phát bằng tàu của Hải quân Pháp. Những chiếc mũ kepi trắng của Trung đoàn Lê dương bộ binh số 5 – những người sống sót sau vụ thảm sát 9/3/1945 và từng rút sang Trung Quốc, cùng với các đồng đội đã chiếm được thị xã Hải Dương, nơi cách thủ đô nửa đường, sau bốn ngày giao tranh ác liệt.
Bất ngờ trước quy mô phản công của Pháp, phía Việt Minh cố gắng chống trả nhưng không thành, trước sức ép của lính thủy đánh bộ, lính hải quân, lính lê dương và lính dù. Cuối cùng, ông Võ Nguyên Giáp quyết định rút bỏ mọi áp lực trên trục đường huyết mạch của Bắc Kỳ – nơi tất cả các cây cầu đã được thay thế bằng các cầu phao do công binh Pháp dựng. Các đơn vị Việt Minh rút về phía Tây – Nam Hà Nội, vượt qua Hà Đông, nơi ông Hồ Chí Minh đóng quân. Ông từng dự định sẽ tiến vào Hà Nội, dẫn đầu quân đội của mình trong một cuộc diễu binh chiến thắng dứt điểm.
Trong những ngày sau cuộc khởi nghĩa, Tướng Morlière đã cứu thành công các đồn binh nhỏ ở Phủ Lạng Thương và Bắc Ninh, tăng viện cho đồn Nam Định, và mở lại tuyến đường Hà Nội – Hải Phòng. Theo lệnh của ông, một đơn vị lính thủy đánh bộ đã chiếm được một đồn của quân nổi dậy ở An Tảo vào ngày 22/12. Trong khi đó, trước tình hình khẩn cấp, ngày 23/12/1946, Đô đốc Thierry d’Argenlieu đã quyết định giữ lại hai tàu chiến Suffren và Tonkinois ở lại Đông Dương vốn đã chuẩn bị nhổ neo trở về Pháp. Ngày 25/12/1946, ông nhận được bức thư mang giọng điệu hiếu chiến từ Tướng Valluy:
“Sài Gòn gửi Tướng Morlière số 2115/3T. Chỉ huy Beillard đã báo cáo tình hình ở miền Bắc. Tôi hiểu rõ những khó khăn to lớn mà ông đang đối mặt, và tôi đặc biệt hài lòng với những kết quả mà chúng ta đã đạt được nhờ vào tài năng lãnh đạo và những binh sĩ xuất sắc mà tôi biết rất rõ. Để thiết lập quyền kiểm soát của ông với Hà Nội, đừng ngần ngại đánh mạnh bằng pháo và bom. Cần phải nhanh chóng kết thúc, chứng minh cho đối phương thấy ưu thế của chúng ta”.
Valluy gửi bức điện này đã hoàn toàn là người khác với Valluy của vài tuần trước – từng bị một bộ phận dân Pháp ở Đông Dương chê bai khi bí mật đàm phán cùng ông Giáp.

Tướng Morlière thì bàng hoàng. Ông biết rằng việc bắn phá các khu dân cư lao động ở Hà Nội sẽ khiến ít nhất 30.000 người trong cộng đồng Hoa – Việt thiệt mạng, và viễn cảnh phần lớn trong số 8.000 thương nhân Hoa kiều tử vong có thể khiến quân đội Tưởng Giới Thạch quay trở lại Bắc Kỳ.
Vì vậy, ông đã không ra lệnh pháo kích Hà Nội.
Sau 3 tuần giao tranh du kích dữ dội, chỉ còn một vài nhóm Tự Vệ duy trì chiến đấu ở các khu phố nơi người châu Âu sinh sống tại Hà Nội, quanh con đường Paul Bert rộng lớn – con đường cắt ngang thành phố, nối từ sông ra phía đường sắt. Sau đó, những nhóm chiến đấu cuối cùng rút lui vào mê cung phố xá của khu Hoa – Việt, vượt qua Hồ Gươm và tiến tới những nhịp đầu tiên của cầu Long Biên. Vành đai phố nhỏ, nối liền các kho hàng và xưởng dệt, dần trở thành một pháo đài bất khả xâm phạm.
Bộ chỉ huy cấp cao, thông qua giới thương nhân Hoa kiều, đã cố gắng thuyết phục những người cố thủ rời khỏi khu vực. Dù không có thỏa thuận chính thức, các nhóm Tự Vệ đã lặng lẽ rút đi mỗi đêm qua một vòng vây được cố ý nới lỏng. Công tác rút lui tăng mạnh vào cuối tháng 1. Trong khi ở Pháp, vào ngày 28/1/1947, Chính phủ Paul Ramadier thay thế cho Chính phủ Blum, thì tại Hà Nội, quân Pháp cuối cùng đã tiến vào “khu giải phóng” vào ngày 1/2. Ở một số nơi, cảnh tượng giờ đây giống hệt thành phố Normandy từng bị không quân Đồng Minh ném bom, với những dãy nhà bị phá nát…■
Geogres Fleury
Lê Hằng Nga (dịch)