Hoạt động tình báo ở các đô thị Việt Nam bị địch tạm chiếm giai đoạn 1945-1954

Trong bài viết “Hà Nội và Sài Gòn thuộc địa trong chiến tranh: Động lực xã hội của ‘thành phố ngầm’ của Việt Minh, 1945-1954” (Colonial Hanoi and Saigon at War: Social Dynamics of the Viet Minh’s ‘Underground City’, 1945-1954), sử gia Christopher E. Goscha nhấn mạnh vai trò then chốt của đô thị trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc Việt Nam. Không chỉ cung cấp vật chất và nhân lực, các thành phố thuộc địa như Hà Nội, Huế, Sài Gòn còn là nguồn thông tin tình báo vô giá cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, là nơi Việt Minh xây dựng các “thành phố ngầm” kết nối thành thị với chiến khu ở vùng nông thôn. Tạp chí Phương Đông trích dịch giới thiệu tới bạn đọc phần nói về việc truyền tin và tình báo – những hoạt động đã góp một phần quan trọng vào sự tồn tại và phát triển của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong giai đoạn 1945-1954. (Tiêu đề bài do BBT đặt, ngôn từ trong bài được giữ nguyên so với bản gốc để độc giả nghiên cứu, tham khảo)

Các thành phố thuộc địa: nguồn cung cấp quan trọng cho chiến khu

Bốn năm trước khi Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Bắc Kinh vào tháng 10/1949, mặt trận dân tộc chủ nghĩa do cộng sản lãnh đạo, Việt Minh, đã nắm quyền tại tất cả các thành phố thuộc địa của Việt Nam. Vào ngày 2/9/1945, trước hàng trăm nghìn người tập trung tại thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố khai sinh một nước Việt Nam mới – nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuy nhiên, sự hiện diện không bị thách thức của Việt Minh tại Sài Gòn chỉ kéo dài chưa đầy một tháng trước khi người Pháp, được Anh bật đèn xanh, dùng vũ lực trở lại các khu vực dưới vĩ tuyến 16 để tái lập nhà nước thuộc địa mà Nhật Bản đã chiếm được vài tháng trước đó. Quân đoàn Viễn chinh Pháp đã đẩy Việt Minh ra khỏi các thành phố về vùng nông thôn khi giành quyền kiểm soát đường sá, cầu cống và các thị trấn. Tuy nhiên, tình hình rất khác ở phía trên vĩ tuyến 16. Nhờ Hội nghị Potsdam phân chia Đông Dương tại ranh giới đó và lực lượng chiếm đóng của Tưởng Giới Thạch không muốn chấp nhận một cuộc đảo chính của Pháp ở phía trên vĩ tuyến 16, nên Việt Minh đã hoạt động gần như không bị thực dân can thiệp tại các thành phố ở miền Trung và miền Bắc Việt Nam trong hơn một năm. Đặt trụ sở tại các trung tâm đô thị, các nhà lãnh đạo của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) đã ghép phần lớn nhà nước dân tộc mới vào cơ sở hạ tầng thuộc địa đã có từ trước, chiếm đóng các tòa nhà hành chính của Pháp, các nhà máy, bệnh viện và trường học, và giữ lại nhiều nhất có thể số công chức người Việt đáng tin cậy đã được đào tạo từ thời thuộc địa.

Điều ít người biết đến là khi chiến tranh ngày càng có khả năng xảy ra từ giữa năm 1946, Việt Minh đã bắt đầu sơ tán càng nhiều cơ sở hạ tầng đô thị và nhân lực càng tốt. Ví dụ, trước khi phá hủy đài phát thanh của Pháp bên ngoài Hà Nội, các cán bộ VNDCCH đã cẩn thận dọn sạch kho chứa radio, điện thoại, máy phát điện và các phụ tùng. Họ chở theo máy phát của đài, xương sống của Đài Tiếng nói Việt Nam. Điều tương tự cũng xảy ra với các viện Pasteur và rất nhiều bệnh viện, phòng khám và nhà thuốc. Việt Minh đã cẩn thận tịch thu vắc-xin, thuốc men, thiết bị y tế, và đôi khi cả nhân sự. Chính phủ thậm chí còn sơ tán một phần đáng kể Khoa Y do Pháp xây dựng tại Hà Nội, đủ để chính phủ mới có thể thành lập một trường y sơ khai ở vùng đồi núi phía bắc. Ngành “công nghiệp” vũ khí của nhà nước VNDCCH hoạt động tại các vùng du kích chủ yếu nhờ vào vật liệu, máy móc thời thuộc địa và lao động di tản khỏi các thành phố. Trong khi đó, các trinh sát và sinh viên đã mang theo máy in, giấy và mực – nếu thiếu những thứ này thì sẽ không thể có sự lưu thông thông tin, bộ máy hành chính, hệ thống giáo dục hay tuyên truyền trong những ngày đầu.

Theo nhiều cách, các thành phố đã cung cấp phần lớn vật chất ban đầu – dường như khoảng 40.000 tấn – trong quá trình chuyển đổi từ một nhà nước chiến tranh đô thị sang một nhà nước chiến tranh dựa trên nông thôn. Việc “xuất khẩu” các sản phẩm, máy móc và nhân lực đã giúp nhà nước non trẻ này vượt qua cuộc tấn công dữ dội của Pháp năm 1947 và bắt đầu xây dựng lại ở nông thôn. […]

[Bên cạnh việc cung cấp máy móc thiết bị, các nguyên vật liệu, thuốc men, con người…] Thành phố thuộc địa còn là một nguồn tin tình báo vô giá cho nhà nước chiến tranh dựa trên nông thôn. Các phương tiện giao thông và liên lạc hiện đại đã kết nối Hà Nội và Sài Gòn với khu vực châu Á xung quanh, với thủ đô nước Pháp, và với thế giới. Người ta có thể mua báo Pháp, báo Việt Nam và quốc tế tại các thành phố này. Các thư viện đã mở cửa trở lại, bao gồm cả những thư viện do các lãnh sự quán Mỹ và nước ngoài quản lý. Và dĩ nhiên, Hà Nội, Huế và Sài Gòn là các trung tâm của quyền lực thực dân. Bộ chỉ huy cấp cao của Pháp hoạt động từ Hà Nội và Sài Gòn và tổ chức các hoạt động quân sự tại đây. Việc xây dựng bất kỳ dự án nào chống lại nhà nước VNDCCH, chẳng hạn như “giải pháp Bảo Đại” và một nhà nước phản cách mạng, đều xuất hiện từ đó.

Theo dõi những diễn biến như vậy rõ ràng là một nhiệm vụ cốt yếu. Nông thôn không thể cung cấp thông tin về những vấn đề quan trọng này. Nền ngoại giao còn rất non trẻ của VNDCCH cũng không thể sánh được với thành phố thuộc địa về mặt đưa tin thời sự. Sài Gòn và Hà Nội là những nguồn tin tình báo và thông tin quan trọng nhất cho Việt Minh. Điệp viên tại các “thành phố bị chiếm đóng” đã mua báo Pháp, báo Việt Nam và báo nước ngoài một cách có hệ thống, cắt riêng các bài báo và số liệu thống kê có liên quan, rồi lưu trữ và gửi đến các nhà hoạch định chính sách đang chờ đợi ở nông thôn. Tham gia vào một cuộc chiến tranh thuộc địa với những khía cạnh quốc tế ngày càng quan trọng, các nhà hoạch định chính sách của VNDCCH cần phải nắm bắt thông tin về hoạt động của cả kẻ thù Pháp lẫn kẻ thù Việt Nam và các đồng minh nước ngoài. Việc ra quyết định hiệu quả phụ thuộc vào điều này. Các điệp viên an ninh và tình báo hoạt động bí mật, thu thập thông tin về các hoạt động di chuyển của quân đội Pháp và các dự án chính trị của Pháp. Họ cẩn thận lập các báo cáo chi tiết về thái độ của người dân địa phương và tạo dựng những mạng lưới quan hệ phức tạp với một cộng đồng dân cư thành thị, từ những người nghèo khó đến những người giàu có, đồng thời nỗ lực hết sức để xâm nhập vào các hiệp hội sinh viên, trí thức và văn hóa. Như một cuốn lịch sử gần đây của lực lượng Thông tin liên lạc Công an Nhân dân mô tả:

Các chiến sĩ công an cấp quận trong thành phố đã gửi hàng trăm báo cáo về các hoạt động quân sự, hoạt động chính trị, gián điệp và các đảng phái chính trị phản động của địch về trụ sở công an thành phố tại khu vực căn cứ của chúng tôi. Nhiều báo cáo trong số này chứa đựng những thông tin quý giá, giúp chúng tôi chống lại những âm mưu của địch nhằm truy lùng và bắt giữ các điệp viên và tổ chức của chúng tôi trong thành phố. Sách, tạp chí và báo mà địch xuất bản trong thành phố cũng được gửi thường xuyên đến căn cứ. Những tài liệu được công bố này đã giúp chúng tôi phân tích và khám phá ra rất nhiều thông tin giá trị về các hoạt động của địch dưới mọi hình thức, những thông tin trực tiếp hỗ trợ các hoạt động phản gián và nỗ lực theo dõi tình hình chung của chúng tôi.

Ngay sau khi các nhà lãnh đạo VNDCCH di tản khỏi Hà Nội và Sài Gòn, Đảng đã cử các điệp viên quay trở lại để xây dựng các thành phố ngầm song song tại Hà Nội và Sài Gòn thuộc địa, thường được gọi bằng tiếng Việt là “đặc khu”[1]. Điều này cũng có nghĩa là Hà Nội, Huế và Sài Gòn chịu sự giám sát của cảnh sát ở mức độ chưa từng có, đầu tiên là của Pháp và VNDCCH, sau đó là của “Quốc gia Việt Nam” của Bảo Đại từ năm 1949. Tất nhiên, từ rất lâu trước khi chiến sự bùng nổ, cảnh sát thuộc địa vẫn luôn theo dõi sát sao các hoạt động dân tộc chủ nghĩa ngầm trong các thành phố. Điều mới mẻ trong Chiến tranh Đông Dương là Sở Mật thám giờ đây có thể dựa vào quân đội và một loạt cơ quan tình báo mới để hỗ trợ công tác đàn áp và thu thập thông tin tình báo. Một thập kỷ trước khi tiến vào Casbah ở Algiers, quân đội Pháp đã dính líu sâu vào việc kiểm soát các thành phố thuộc địa ở Việt Nam. Phòng Nhì [tình báo quân đội Pháp] đã mở hồ sơ về Sài Gòn, Hà Nội và Huế, đồng thời trao đổi thông tin với Sở Mật thám và nhiều cơ quan tình báo khác của “Quốc gia Việt Nam”. Đến năm 1950, để ngăn chặn Việt Minh xâm nhập Sài Gòn-Chợ Lớn, Pháp đã triển khai gần 15.000 quân tại đây, bao gồm 1.000 người Campuchia, 2.100 người theo đạo Cao Đài và 171 người Việt theo Công giáo. 5.000 quân khác bảo vệ Chợ Lớn. Các mật vụ an ninh và binh lính thường xuyên kiểm tra xe khách và xe hơi ra vào thành phố. Quân đội Pháp đã xây dựng các lô cốt; thiết lập các trạm kiểm soát vũ trang tại các tuyến đường chính; bố trí điệp viên, người chỉ điểm và quân lính tại các làng ngoại ô có vị trí chiến lược; và thường xuyên tiến hành các hoạt động biệt kích.

Sở Cảnh sát Pháp tại Hà Nội: các mật thám người Pháp và người bản xứ. Ảnh trong sách “Le Tonkin en 1900” của Robert Dubois.

Tất cả những điều này đã góp phần vào việc quân sự hóa, tổ chức quân đội và giám sát đời sống đô thị. Người dân mang theo thẻ căn cước bắt buộc và dần quen với việc xuất trình giấy tờ, bị khám xét và đi qua các trạm kiểm soát. Lệnh giới nghiêm thường được áp dụng. Cảnh sát vũ trang và binh lính tuần tra trên đường phố là hình ảnh thường thấy. Việc di chuyển vào và ra khỏi thành phố đều bị kiểm soát. Người ta không thể tự do “đi vào” hoặc “ra khỏi” thành phố thuộc địa trong thời chiến. Đối với những người hoạt động chống Pháp, ngay cả việc di chuyển trong thành phố cũng có thể là một trải nghiệm căng thẳng. Như một điệp viên cộng sản bí mật nhớ lại thời gian ông ở Hà Nội vào đầu những năm 1950: “Khi di chuyển, chúng tôi phải đi thật bình tĩnh và điều đặc biệt quan trọng là không được tỏ vẻ lo sợ. Một vẻ mặt lo lắng, một khuôn mặt sợ hãi hoặc một thái độ bất thường là đủ để bạn bị lộ và bị bắt giữ.”[2]

Cảnh sát và các cơ quan tình báo của VNDCCH đã bắt chước công việc của đối thủ, dẫn đến việc “giám sát kép” thành phố. Các lãnh đạo công an ngầm của VNDCCH, do những người như Trần Quốc Hoàn ở Hà Nội và Cao Đăng Chiếm ở Sài Gòn chỉ huy, đã chủ trì việc giám sát người Pháp và “Quốc gia Việt Nam” tại các thành phố thuộc địa. Những cán bộ này đã bố trí các điệp viên cài cắm, mật vụ và gián điệp riêng, về mặt lý thuyết là chịu trách nhiệm cho từng khu vực bị chia cắt bên trong Sài Gòn và Hà Nội. Tổng tư lệnh Lực lượng vũ trang Nam bộ, Tướng Nguyễn Bình, đã điều hành hoạt động giám sát quân sự riêng tại Sài Gòn cho đến năm 1950. Các công chức đã lập hồ sơ về những người làm việc với người Pháp “ở cấp cao”, đồng thời cẩn thận ghi chép tên của những người làm việc cho Pháp trên đường phố và ở các quán cà phê “ở cấp thấp”. Thành phố ngầm là một phần của bộ máy hành chính nhà nước và bộ chỉ huy quân sự của VNDCCH. Không có gì ngạc nhiên khi chính quyền Pháp và chính quyền “Quốc gia Việt Nam” phải di chuyển với mức độ an ninh chưa từng có và thay đổi lịch trình hàng ngày. Nỗi sợ bị ám sát và ném lựu đạn là có thật. Chúng ta cũng không nên ngạc nhiên khi các chính trị gia và thương gia quyền lực người Việt liên minh với Pháp không phải là những người duy nhất chạy khỏi Hà Nội vào cuối năm 1954.

Lính Pháp bên các tờ rơi tuyên truyền do Việt Minh để lại tại một trạm quân đồn trú Pháp ở Trà Vinh vừa bị Việt Minh tấn công, tháng 10/1950. Các tờ rơi này sẽ được chuyển cho sĩ quan tình báo Pháp. Ảnh: militaryimages.net

Những mối liên kết

Các thành phố ngầm của nhà nước VNDCCH không thể hoạt động được nếu không có người dân vận chuyển hàng hóa và thông tin. Các cán bộ cộng sản lịch thiệp có thể đã nắm quyền quyết định. Sức hút của Tướng Nguyễn Bình có thể đã trở thành huyền thoại. Nhưng tất cả những người đàn ông này (rất ít phụ nữ giữ chức vụ lãnh đạo) đều dựa vào các thanh niên và sinh viên yêu nước, những phụ nữ bán hàng rong, và thậm chí cả trẻ em để truyền thông tin và tài liệu đến và ra khỏi thành phố. Nhiều người đã chấp nhận rủi ro cực lớn khi che giấu điệp viên, thu thập thông tin và vận chuyển người, thuốc men, linh kiện radio và tiền bạc qua ranh giới của kẻ thù. Những người này đến từ mọi tầng lớp xã hội. Sinh viên tư sản, được khuyến khích bởi lòng yêu nước trào dâng từ những ngày tháng sôi động giai đoạn 1945-1947, chắc chắn đã hoạt động tích cực trong lĩnh vực này, đặc biệt là vào đầu cuộc chiến, cũng như các trí thức, giáo viên, và thậm chí cả các luật sư đã bảo vệ Nguyễn Bình trong chuyến công du bí mật của ông tại Sài Gòn năm 1947. Hàng trăm người trong số này đã di tản cùng Việt Minh hoặc gia nhập quân đội trong những ngày đầu. Nhiều người đã trở về các thành phố và tiếp tục hoạt động trong các tổ chức hợp pháp và bất hợp pháp.

Tiến sĩ Nguyễn Thị Ngọc Toản, xuất thân từ gia đình hoàng tộc ở Huế, là một ví dụ điển hình. Bà bắt đầu sự nghiệp cách mạng tại Huế với sự xuất hiện của Việt Minh. Khi còn là một thiếu nữ, bà đã bí mật mang tài liệu và thuốc men ra khỏi thành phố và phát tờ rơi tuyên truyền ở Huế và Sài Gòn. “Tôi quá phấn khích nên đã đi theo những người khác”, sau này bà nhớ lại; “Chúng tôi rất thích”, bởi vì “những hoạt động kiểu này rất phù hợp với lứa tuổi đó, khi người ta thích phiêu lưu và mạo hiểm”. Nền giáo dục tinh hoa mà bà Toản được hưởng (bà tốt nghiệp trường trung học Đồng Khánh và nói tiếng Pháp lưu loát) cùng địa vị xã hội cao (dòng máu hoàng tộc) đã giúp ích cho bà rất nhiều, giúp bà ra tù nhiều lần. Những người Pháp bắt giữ bà Toản (cũng như người mẹ đầy lo lắng của bà) đã nói với bà rằng một thành viên của hoàng tộc, lại là một phụ nữ, không nên tham gia vào những hoạt động phản loạn chỉ dành cho “người nghèo và người bị áp bức” như vậy. Điều này đã không thể ngăn cản bà Toản, hay những thanh niên trung lưu có học thức khác. Năm 1948, vì quá bực tức, Sở Mật thám cuối cùng đã trục xuất bà khỏi Huế. Đây chỉ là một trong số rất nhiều trường hợp[3].

Giáo sư, bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Toản và chồng là Trung tướng Cao Văn Khánh. Ảnh chụp năm 1955, một năm sau đám cưới đặc biệt của họ ngay tại Hầm chỉ huy Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ vào ngày 22/5/1954. Ảnh: báo QDND

Về mặt hậu cần, cũng quan trọng không kém – nếu không muốn nói là quan trọng hơn – là một đội quân phụ nữ buôn bán và bán hàng rong rong ruổi hàng ngày giữa thành phố và các vùng ngoại ô, di chuyển từ chợ này sang chợ khác, từ phố này sang phố khác. Công việc của họ rất phù hợp với nhu cầu vận chuyển người, vật liệu và tài liệu ra vào thành phố của Việt Minh. Những người phụ nữ này, chủ yếu ở độ tuổi thiếu niên và đôi mươi, phủ kín cả khu vực đô thị với những chiếc giỏ trên vai. Họ sở hữu kiến thức vô giá về những con phố chính, các ngõ ngách, và cả mặt trái xã hội của các hoạt động trao đổi của thành phố ngầm VNDCCH. Các nhà lãnh đạo nam giới theo chủ nghĩa dân tộc rất tin tưởng rằng sự kết hợp giữa giới tính và giai cấp của những người phụ nữ này sẽ bảo vệ họ, và do đó cả hàng hóa mà họ bí mật mang theo, khỏi sự khám xét và tịch thu.

Vì vậy, VNDCCH đã tuyển dụng rất kỹ lưỡng các “giao liên” để kết nối thành phố với nông thôn. Chính xác là bao nhiêu người? Có lẽ khoảng 50 người cho Sài Gòn, Huế và Hà Nội, nằm trong nội thành và ngoại ô, nơi Việt Minh đặt các căn cứ an toàn, thường gần chợ – những nguồn thông tin địa phương tuyệt vời. Trong hồi ký của mình, các cán bộ cấp cao của VNDCCH thường đề cập đến tầm quan trọng của những nữ hướng dẫn viên hộ tống họ ra vào thành phố một cách an toàn. Nhớ lại lần vào Hà Nội năm 1951, Nguyễn Bắc đã nhấn mạnh đến kiến thức đầy ấn tượng của họ:

Người điệp viên liên lạc của tôi, tức là người được giao nhiệm vụ đưa tôi [vào Hà Nội], là một phụ nữ trẻ rắn rỏi với làn da rám nắng, cực kỳ thông thạo khu vực này. Không gì có thể thoát khỏi tầm mắt cô ấy trong phạm vi công việc của cô [một điệp viên liên lạc]. Cô ấy cảnh báo tôi rằng trong trường hợp bị cảnh sát kiểm tra hoặc thậm chí nếu ai đó hỏi những câu hỏi thiếu tế nhị, chúng tôi phải trả lời rằng chúng tôi là một cặp vợ chồng trở về Hà Nội sau vài ngày về quê ăn giỗ cha mẹ. Cô ấy nói cho tôi tên ngôi làng tưởng tượng, tên thôn xóm, và phả hệ đầy đủ của các thành viên trong gia đình ở quê đó “của chúng tôi”, cũng như mối quan hệ họ hàng gắn kết dòng họ chúng tôi qua nhiều thế hệ. Và cô ấy nói rõ với tôi một cách hết sức nghiêm túc rằng tôi phải lặp lại được tất cả những điều này mà không hề ngần ngừ gì và với một vẻ mặt bình thường[4]!

Những phụ nữ bán hàng rong có thể là những giao liên rất hiệu quả của Việt Minh. Hình ảnh những người phụ nữ từ khu vực ngoại thành vào Hà Nội qua cầu Long Biên, khoảng năm 1940-1941. Ảnh: Harrison Forman

Kiến thức xã hội và xã hội học của những người phụ nữ trẻ này thật sự vô giá, nằm ở điểm giao cắt rất thực giữa lãnh thổ thuộc chủ quyền của nhà nước thời chiến dựa trên nông thôn với lãnh thổ chủ quyền của thành phố thuộc địa Pháp mà những người theo chủ nghĩa dân tộc rất cần phải xâm nhập. Đây là những khu vực cực kỳ nguy hiểm, nơi sự nghi ngờ luôn gia tăng tại các trạm kiểm soát biên giới, giấy tờ tùy thân là bắt buộc, và thái độ, cách nói năng cùng trí thông minh đóng vai trò quan trọng hơn sức mạnh cơ bắp. Ngô Văn Chiêu, một người dân thành thị yêu nước khác, nhập ngũ năm 1945, mang ơn cô gái dẫn đường trẻ tuổi đã đưa ông vào Hà Nội an toàn vào năm 1951. Khi chiếc xe khách chở họ vào thành phố bị kiểm tra, ông Chiêu quên mất mình đang ở đâu, và đã buột miệng dùng từ “đồng chí” khi trả lời viên sĩ quan người Việt đang tra hỏi ông tại trạm kiểm soát. “Sao anh lại gọi tôi là đồng chí?”, viên sĩ quan đáp trả. “Tôi đã chết lặng”, sau này ông Chiêu nhớ lại, nhưng “trong nháy mắt, cô gái trẻ đã tiếp quản [cuộc trò chuyện]”. Thực tế, cô ấy đã nói mọi thứ và nghĩ trước mọi thứ. Cô đã cung cấp cho viên sĩ quan của “Quốc gia Việt Nam” một bản mô tả cực kỳ chi tiết về cuộc đời của Chiêu khi còn là một nông dân nghèo dưới chế độ “chuyên chế cộng sản” và một bằng chứng ngoại phạm hợp lý cho việc ông sử dụng thuật ngữ cộng sản này. Rồi cô kết thúc một cách xuất sắc với người đàn ông cầm súng đứng trước mặt mình:

Điệp viên liên lạc: Thưa sĩ quan, anh trai tôi là một thợ nề rất giỏi nhưng anh ấy không thông minh lắm. Chúng tôi chỉ là những người nông dân nghèo. Xin hãy rộng lượng tha thứ cho chúng tôi. Chúng tôi đang đến để được các ngài bảo vệ [khỏi cộng sản] ở Hà Nội…

Viên sĩ quan: Được rồi, đi đi. Nhưng đừng gọi những người ở đây là đồng chí… Anh có thể gặp phải những cảnh sát kém hiểu biết.

Điệp viên liên lạc: Vâng, thưa sĩ quan, cảm ơn ngài. [Nói với Chiêu:] Nhanh lên… chúng ta sẽ đến nhà mẹ đỡ đầu của tôi, bà ấy sống gần đây[5].

Những người phụ nữ, kiến thức của họ, cùng các mối quan hệ xã hội và họ hàng đóng vai trò trọng yếu trong việc tạo ra thành phố ngầm và mối liên hệ của nó với “bên ngoài”. Người dẫn đường của Chiêu, một người Công giáo, đã giúp ông ở nhờ tại nhà mẹ đỡ đầu của cô. Chiêu nợ người phụ nữ trẻ này sự tự do, và có lẽ là cả mạng sống của mình. Hệ tư tưởng cộng sản rõ ràng không đóng vai trò gì nhiều trong trường hợp này. Nhưng trong những trường hợp khác, nó có thể là một mối liên kết quan trọng. Dẫn đầu chính đội trinh sát mà Đảng Cộng sản Đông Dương cử quay trở lại thủ đô bị tàn phá vài ngày sau khi những người dân quân cuối cùng đã rút lui vào ngày 17/2/1947 là một người tên là Nguyễn Thị Thuần. Nhiệm vụ của bà? Thu thập thông tin tình báo và đảm bảo an toàn cho các cán bộ nam trở lại thành phố hiện đang bị chiếm đóng. Bà là vợ của một trong những nhà lãnh đạo cộng sản quan trọng nhất. Và bà không phải là “phu nhân lãnh tụ đảng” duy nhất đóng vai trò quan trọng (và nguy hiểm!) như vậy trong thành phố ngầm và những nơi khác.[6]

Các em nhỏ trong Hội Nhi đồng Cứu quốc, Hà Nội, khoảng năm 1946. Ảnh trong Bộ sưu tập của Christophe Dutrône.

Cũng làm trinh sát cho những nhóm đầu tiên trở về Hà Nội là 5 em nhỏ của “Đội Thiếu niên Tình báo Bát sắt”. Nhiều em xuất thân từ những gia đình nghèo hoặc là trẻ mồ côi. Thật không may, vào thời điểm đó không thiếu trẻ mồ côi. Nghèo đói từ lâu đã đẩy nông dân vào các thành phố thuộc địa. Nạn đói khủng khiếp năm 1944–1945 đã tạo ra hàng loạt trẻ em mồ côi cha mẹ ở trong và xung quanh Hà Nội. Việc các gia đình bị chia cắt do nạn đói đã tạo điều kiện cho Việt Minh tuyển dụng người dẫn đường và chỉ điểm trong số các em nhỏ. Ở Sài Gòn, Huế và Hà Nội, Việt Minh đã chiêu mộ trẻ mồ côi đi bán báo, làm nghề đánh giày, ăn xin hoặc trộm cắp. Các em này được đánh giá là rất thông thạo phố xá và không chịu sự quản lý của cha mẹ, và – vì tuổi còn nhỏ, có vẻ ngoài lôi thôi lếch thếch cùng những công việc tầm thường – các em thường được lực lượng an ninh Pháp bỏ qua (hoặc Việt Minh đã nghĩ như vậy). Những em nhỏ này đã giúp cung cấp và vận chuyển thông tin và nhân lực bên trong các thành phố, hoặc vào và ra khỏi thành phố. Ban lãnh đạo VNDCCH đã sử dụng những em nhỏ này để chuyển thư cá nhân của Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và những người khác cho bạn bè và những người ưu tú ở Hà Nội, kêu gọi họ không cộng tác với Pháp và gia nhập các vùng kháng chiến.[7] Nhiều em trong số này đã hy sinh trong cuộc chiến tranh phi thực dân hóa đầy bạo lực này, xóa nhòa sự chia rẽ giữa dân thường và chiến sĩ ngay từ đầu…■

Christopher E. Goscha

Hoàng Anh (dịch)

Chú thích:

[1] Lịch sử tình báo Công an nhân dân Việt Nam (1945-1954), Hanoi, NXB CAND

[2] Giữa thành phố bị chiếm, Nguyễn Bắc, NXB Hà Nội, 1994

[3] Oral History Interview of Dr. Nguyen Thi Ngoc Toan, Merle Pribbenow, Hà Nội, 2007.

[4] Giữa thành phố bị chiếm, Nguyễn Bắc, NXB Hà Nội, 1994

[5] Ngo Van Chieu, Journal d’un combattant viet-minh (Nhật ký của một chiến sĩ Việt Minh), Paris: Seuil, 1955

[6] Quân báo mặt trận Hà Nội trong vùng bị địch tạm chiếm, báo Quân đội nhân dân ngày 13/10/2009

[7] Lịch sử tình báo Công an nhân dân Việt Nam (1945-1954), Hanoi, NXB CAND; Lực lượng thông tin liên lạc công an nhân dân, Lịch sử biên niên 1945-1954, Hà Nội: NXB CAND, 1998; “Đội thiếu niên quân báo Bát Sắt”, Sự kiện và Nhân chứng số 14 (tháng 3/1995); Lược sử chiến sĩ quyết tử

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN