Quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Viễn Đông năm 1954

Sau gần một thập kỷ chiến tranh, Hiệp định Genève năm 1954 đã chính thức khép lại cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ của nhân dân ta. Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp quản Hà Nội, quân Pháp bắt đầu rút khỏi miền Bắc Việt Nam. Tạp chí Phương Đông trích dịch và giới thiệu bài viết phân tích tình hình những ngày gần kề giải phóng của nhà sử học Ivan Cadeau đăng trên tạp chí Revue historiques des armées số 258, xuất bản năm 2010.

Khép lại chiến tranh: đảm bảo tù binh hồi hương và rút khỏi miền Bắc Việt Nam

Tại Genève, đêm 20 rạng sáng ngày 21/7/1954, khi kim đồng hồ trong tòa nhà Pavillon des Nations – nơi tiếp đón các phái đoàn quốc tế – đứng im ở vị trí điểm lúc nửa đêm, mục tiêu mà Thủ tướng Pháp Pierre Mendès France tự đặt ra một tháng trước đó đã hoàn thành[2]. Thực tế, chỉ vài giờ sau đó, các hiệp định giữa Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) đã được ký kết: chiến tranh ở Đông Dương đi tới hồi kết[3].

Trong hàng ngũ chiến binh của quân viễn chinh Pháp, việc chấm dứt giao tranh được đón nhận trong tâm thế “tuy không vui mừng, nhưng với cảm giác nhẹ nhõm vô cùng”[4]; nhận định này xuất phát từ báo cáo về tinh thần của Tiểu đoàn Dù Thuộc địa số 7 và dường như được chia sẻ rộng rãi. Trong giới sĩ quan, nhiều người đang ở nhiệm kỳ công tác thứ hai – lệnh ngừng bắn được tiếp nhận trong nỗi buồn bã. Thực tế vào thời điểm đó, việc rút quân Pháp khỏi Viễn Đông thậm chí được xem là một triển vọng tích cực. Với nhiều người, đây là cơ hội để “thoát khỏi bầu không khí ngột ngạt ở Đông Dương và đi tới nơi khác để làm những việc có tính xây dựng hơn”. Tuy nhiên, vào mùa hè năm 1954, việc Lực lượng viễn chinh Pháp ở Viễn Đông (CEFEO) rút đi chưa phải chuyện diễn ra ngay lập tức. Ưu tiên của Bộ chỉ huy Pháp lúc này là giúp tù binh của Liên hiệp Pháp, đặc biệt là những binh sĩ Pháp mất tích, hồi hương.

Những tốp lính cuối cùng của lực lượng viễn chinh Pháp tại Viễn Đông chuẩn bị rời khỏi Hà Nội ngày 10/10/1954. Ảnh: Réne Adrian

Việc thống kê chính xác tổn thất trong chiến tranh Đông Dương là điều khó khăn với cả phía Pháp và phía Việt Minh. Tuy nhiên, vẫn có thể đưa ra một con số ước lượng hợp lý: khoảng 100.000 binh sĩ của CEFEO đã chết hoặc mất tích, trong đó có hơn 20.000 người Pháp chính quốc. Nhà nghiên cứu Michel Bodin – một chuyên gia về đề tài này – đưa ra con số từ 26.000 đến 30.000 binh sĩ Pháp tử trận[5]. Ngoài ra, còn có 11.000 lính lê dương, 15.000 binh sĩ châu Phi và Bắc Phi[6] thiệt mạng, cũng như 46.000 binh sĩ chính quyền và lính phụ tá người Đông Dương phục vụ trong các đơn vị của Pháp. Về phía các quân đội quốc gia của ba quốc gia Việt Nam, Lào, Campuchia[7], số người tử trận được ghi nhận là hơn 17.000. Về phía Việt Minh, do thiếu nguồn tư liệu, việc thống kê tổn thất còn khó khăn hơn nữa. Con số thường được nhắc đến là 500.000 người thiệt mạng, bao gồm cả chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) lẫn hàng chục nghìn người dân thường – nạn nhân của các trận oanh tạc.

Vấn đề tù binh của CEFEO cũng rất phức tạp. Ngay sau khi chiến tranh kết thúc, bộ chỉ huy Pháp thành lập một ủy ban tìm kiếm tù binh chiến tranh, chủ yếu dựa vào lời khai của các sĩ quan và binh sĩ được thả trước khi kết thúc giao tranh[8]. Thực tế, trước năm 1954, Việt Minh đã thả tự do cho vài trăm binh sĩ của CEFEO.

Xét về thực tiễn, các hoạt động trao đổi tù binh do Ủy ban Quân sự Trung Giã đảm nhiệm, thành lập theo Điều 8 của Hiệp định Genève. Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa các phái đoàn đã làm chậm việc ký kết một thỏa thuận về phương thức trao đổi, và cuối cùng hai bên chỉ đạt được thỏa hiệp vào ngày 14/8/1954; những đợt trả tự do đầu tiên diễn ra từ ngày 18/8 và kéo dài đến cuối tháng 9.

65.000 tù binh của QĐNDVN được phía Pháp trao trả cho chính quyền Việt Minh và có 11.000 trong số 37.000 binh sĩ mất tích của Liên hiệp Pháp trở về. Tháng 10/1954, một tài liệu đề cập đến sự nhầm lẫn lớn và những câu hỏi đặt ra xung quanh vấn đề tù binh và mất tích rằng: “Sự nhầm lẫn này có lẽ đã được một số tờ báo cố tình tạo ra, khiến nhiều người thiện chí tin rằng tổng số thương vong của quân viễn chinh chính là số tù binh, hoặc thậm chí là số người vắng mặt. Dù thế nào đi nữa, những con số thường được đưa ra như 30.000 hay thậm chí 40.000 binh sĩ của chúng ta không được hồi hương là hoàn toàn sai sự thật”[9]. Thực tế, một phần tù binh đã hy sinh trong thời gian bị giam giữ; còn những người mất tích thì có người chưa bao giờ bị giam trong các trại của Việt Minh, có lẽ đã tử trận mà không thể xác định danh tính. Tính đến ngày 16/10/1954, tổng số quân nhân mất tích kể từ năm 1945 là 21.000 người, trong đó hơn một nửa (13.000) là người Đông Dương. Tuy nhiên, sau 12 tháng làm việc, phạm vi thực hiện công tác tìm kiếm đã được thu hẹp, nhờ vào lời khai và giấy báo tử do phía Bắc Việt Nam trong Ủy ban Liên hợp Kiểm soát (CMC)[10] cung cấp. Số tù binh CEFEO coi như chưa được trao trả dừng ở con số khoảng 6.540 người. Vào thời điểm đó, khi hy vọng tìm thấy người sống sót ngày càng mong manh, những người mất tích dần dần được xem như đã tử trận hoặc đào ngũ.

Thật vậy, như một công văn ngày 21/7/1954 nêu rõ, nhiều tù binh không được QĐNDVN trao trả hóa ra là những kẻ đào ngũ, có người đã quy thuận hoặc không quy thuận Việt Minh, và một số đã quay trở về chính quốc của mình (thường là các nước Đông Âu) thông qua Trung Quốc và Liên Xô. Chẳng hạn, trong 1.234 lính lê dương được coi là tù binh tính đến ngày 21/2/1955[11], thì có hàng trăm người không còn ở Việt Nam vào thời điểm ngừng bắn. Tổng số lính lê dương đào ngũ trong 9 năm chiến tranh ước tính vào khoảng 2.000 người[12].

Quang cảnh hội nghị quân sự Trung Giã ngày 9/7/1954 bàn về vấn đề ngừng bắn, tập kết rút quân và trao đổi tù binh tại Hà Nội. Nguồn: Kho lưu trữ Bettmann

Đến tháng 4/1956, một nguồn tin tường tận thông báo cho cơ quan đặc biệt rằng tại Bắc Kỳ chỉ còn khoảng 30 lính đào ngũ của quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Phần lớn những cựu binh này đã lấy tên Việt Nam và thực tế, không được giới chức dân sự hay quân sự Việt Minh coi trọng[13]. Hơn nữa, vào thời điểm này, Chính phủ VNDCCH không còn cấp thị thực xuất cảnh sang các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa cho lính đào ngũ, với lý do rằng nếu một người đào ngũ muốn rời khỏi nước này thì phải quay về Pháp để làm công tác tuyên truyền ở đó.

Tuy nhiên, theo một số nguồn tin, không phải tất cả tù binh đều đã được trao trả. Các nguồn thân cận của cơ quan Tình báo Đối ngoại và Phản gián Pháp nhiều lần báo cáo về việc các tù nhân châu Âu – không đào ngũ, không quy thuận – xuất hiện tại miền Bắc Việt Nam hai năm sau khi ký hiệp định Genève. Một người cung cấp tin tức, được đánh giá là “đáng tin cậy”, cho biết vào “cuối tháng 9/1956, 50 tù binh châu Âu đang làm công việc đắp đất trên Quốc lộ 6, thuộc khu vực Hòa Bình. Thể trạng của họ tệ và chiến sĩ Việt Minh đang canh giữ họ”[14]. Trong một vài chuyến đi khác, nguồn tin này cũng cho biết đã nhìn thấy vài chục tù binh chiến tranh khác bị quản thúc và canh giữ[15]. Những trường hợp này, nếu thực sự tồn tại, có lẽ liên quan tới các binh lính thuộc đội đặc nhiệm Pháp, đảm nhận việc phá hoại hậu phương, hoặc là các sĩ quan của Binh đoàn Biệt kích Hỗn hợp nhảy dù (GCMA)[16]. Việt Minh coi những người dùng phương thức tác chiến phi truyền thống này là tội phạm chiến tranh.

Nhưng trong khi diễn ra việc đón tiếp và chăm sóc hàng nghìn binh sĩ – những người bị ảnh hưởng nặng về cả thể chất lẫn tinh thần sau nhiều tháng hoặc nhiều năm, thì quân viễn chinh cũng chuẩn bị rút khỏi miền Bắc Việt Nam. Theo hiệp định, CEFEO có 300 ngày để rời khỏi khu vực phía bắc vĩ tuyến 17, trong đó có 100 ngày để rút khỏi Hà Nội. Việc rút quân này, mang mật danh “Chiến dịch Cá Hồi”, kéo theo sự sụt giảm quân số của CEFEO; đôi khi còn tồn tại việc giảm tự phát, bởi nhiều đơn vị chứng kiến làn sóng đào ngũ ngay sau khi có thông báo ngừng bắn – các binh sĩ bản xứ đơn giản là “trở về nhà”.

Ví dụ, Tiểu đoàn Công binh số 62 đã ghi nhận một làn sóng đào ngũ lớn trong quý II năm 1954, chiếm tới 52% quân số[17]. Với Chính phủ Pháp, việc giảm quân này là cần thiết, vừa để giảm tối đa chi phí duy trì lực lượng, vừa để củng cố lực lượng tại Bắc Phi thuộc Pháp. Tính đến tháng 7/1954, CEFEO có 171.000 người, thêm 5.000 người thuộc các phái bộ bên cạnh các quốc gia liên kết.

Đối với Tổng Tư lệnh, vấn đề đặt ra là tổ chức một “quân đoàn viễn chinh tập trung” tại miền Nam Đông Dương, với quân số vẫn đủ để thực hiện các nhiệm vụ mới. Nhiệm vụ đầu tiên là đảm bảo an toàn cho binh sĩ tới khi họ được chuyển về miền Nam, và trong trường hợp bùng nổ giao tranh thì không bị “dồn ra biển”. Nhiệm vụ thứ hai, một khi đã trở về miền Nam Việt Nam, cần giữ vai trò đảm bảo việc thực thi các thỏa thuận đã ký kết trong hiệp định Genève, giúp “Quốc gia Việt Nam” ổn định chính trị, và giám sát việc tổ chức cuộc tổng tuyển cử nhằm thống nhất đất nước, dự kiến diễn ra vào tháng 7/1956. Vì những lý do đó, quân số mà CEFEO phải đạt được vào ngày 1/6/1955 ấn định ở mức 75.000 người.

Xe tải chở lính biệt kích của Lực lượng viễn chinh Pháp ở Viễn Đông băng qua cầu Long Biên rời khỏi Hà Nội tháng 10/1954. Ảnh: Réne Adrian

Ngày 9/10/1954, Hà Nội được bàn giao cho chính quyền Việt Minh; ngày hôm trước, lá cờ Pháp được hạ xuống lần cuối cùng. Với phong cách văn chương đặc trưng, pha trộn chất trữ tình và cảm giác bi thương, nhà báo Lucien Bodard đã chứng kiến cảnh QĐNDVN tiếp quản thành phố và sự thay đổi của thành phố dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội; ngoại trừ kiến trúc thời thuộc địa và các cơ sở hạ tầng lớn mang tính thương mại hoặc công nghiệp, rất nhanh chóng, hầu như không còn gì sót lại cho thấy người Pháp đã hiện diện ở đây hơn 70 năm[18]. “Trật tự đỏ” lan rộng nhanh chóng: giao thông ô tô giới hạn chỉ còn xe công vụ, các quán bar, phòng khiêu vũ, cửa hàng đều bị đóng cửa. Sau khi rời khỏi thủ đô ở miền Bắc Việt Nam, một phần đơn vị quân đội Pháp được hồi hương về chính quốc, một phần khác tiến vào miền Nam Việt Nam hoặc sang Bắc Phi thuộc Pháp, trong khi một lực lượng lớn vẫn ở lại “khu vực 300 ngày” (theo cách gọi thời đó); tại đây, trong lúc chờ ngày rút quân hoàn toàn, quân viễn chinh tiến hành từng đợt rút khỏi các vùng họ đang chiếm đóng, mang theo mọi vật tư có thể đem đi, cả quân sự lẫn dân sự.

Những hoạt động này, diễn ra theo lịch trình và giờ giấc được thỏa thuận tỉ mỉ với chính quyền mới, thỉnh thoảng bị xen ngang bởi những cuộc biểu tình “tự phát” nhằm phản đối việc tháo dỡ và mang đi các thiết bị của đơn vị hoặc công trình công cộng. Đối với các công trình cầu cống, tư lệnh tối cao đã ra chỉ thị ngày 4/8/1954 “để lại nguyên trên các cây cầu đã có trước chiến sự và được thay thế bằng vật liệu quân sự”[19]. Còn các cầu khác được lắp đặt phục vụ cho nhu cầu tác chiến thì vẫn bị tháo dỡ, bất chấp việc phía chính quyền Việt Nam gửi phản đối lên tiểu ban hỗn hợp Bắc Việt Nam.

Bộ đội băng qua cầu Long Biên vào tiếp quản thủ đô ngày 10/10/1954. Ảnh chụp bởi Réne Adrian

Việc tra cứu các bản tin hoạt động hằng tháng trong giai đoạn này cho thấy: càng gần tới thời điểm rút khỏi Hải Phòng, các vụ va chạm giữa dân chúng và quân đội Pháp ngày càng gia tăng. Chẳng hạn, việc tháo dỡ cầu Bến Đò ngày 8/4/1955 đã gây ra một cuộc tụ tập đông người, làm hai người biểu tình bị thương; mười ngày sau, một cuộc biểu tình khác nổ ra khi tháo cầu Kiến An; và ngày 25/4, việc tháo các chân vịt của bến phà[20] An Thái đã dẫn đến đám đông hỗn loạn, khiến 8 người bị thương[21]. Được tổ chức khéo léo, những cuộc biểu tình này không bao giờ biến thành cuộc bạo loạn lớn, mục đích chỉ là duy trì áp lực liên tục lên quân đội Pháp, giống như các vụ phá hoại đường dây điện thoại gần như hàng ngày để cản trở liên lạc của quân viễn chinh.

Nhìn chung, việc rút quân và di chuyển vật tư của Pháp diễn ra trong bầu không khí thù địch nhưng không có xung đột nghiêm trọng, vì dân cư vùng đồng bằng đã được chính quyền mới tiếp nhận và quản lý chặt chẽ. Không khí gay gắt này bị kích động thêm bởi việc tiếp nhận những người tị nạn từ Bắc Bộ, vốn thường bỏ cả làng để vào vùng Pháp kiểm soát và chuyển tiếp vào Nam. Thực tế, Điều 14 của Hiệp định Genève cho phép dân thường tự do chọn khu vực họ muốn sinh sống. Trước làn sóng di cư của một số nhóm dân, nhanh chóng, những người này trở thành người tị nạn cần được giúp đỡ cho ở tạm rồi di chuyển vào Nam.

Tại Hà Nội, trước khi rút quân, phía Pháp đã thành lập một văn phòng vận chuyển hỗn hợp do quân viễn chinh quản lý. Chính phủ Nam Việt Nam cũng lập ra một ủy ban Trung ương di cư, chịu trách nhiệm ghi danh và tập hợp các gia đình muốn đi vào Nam, rồi đưa họ tới Hải Phòng, nơi có văn phòng phụ trách việc di chuyển. Từ tháng 10/1954 đến tháng 5/1955, các cơ quan này vẫn tiếp tục hoạt động ở “đầu cầu Hải Phòng”.

“Cuộc di cư tự nguyện này, vượt xa mọi dự đoán”[22] gây ra vô số khó khăn, đặc biệt do bắt buộc chỉ được sử dụng đường hàng không và đường biển, Việt Minh phản đối việc dùng các tuyến giao thông đường bộ. Có thể chia thành hai đợt di cư chính: đợt đầu tiên là từ khi đình chiến đến khi quân Pháp rút khỏi Hà Nội, số lượng khoảng 330.000 người. Trong khi quân viễn chinh Pháp đảm nhận việc vận chuyển, họ vẫn cần sự hỗ trợ của người Mỹ và người Anh, ở mức độ thấp hơn. Tuy nhiên, trái với một số luận điệu sử học bên kia Đại Tây Dương, đóng góp của Hoa Kỳ trong việc di tản không vượt quá 1/3 tổng số người được đưa đi. Đợt thứ hai bắt đầu từ tháng 10/1954 kéo dài tới tháng 5/1955. Tổng cộng, theo ước tính cao, số người rời khỏi miền Bắc rơi vào khoảng 800.000 đến một triệu người.

Một vài người dân và lính Pháp tránh nắng dưới cánh máy bay Dakota, cất cánh theo đường bay Hà Nội – Sài Gòn từ sân bay Gia Lâm tháng 8 năm 1954. Ảnh: Jean Lussan

Như tướng Gras viết trong tác phẩm nghiên cứu về Chiến tranh ở Đông Dương của mình: “Việt Minh đã tìm mọi cách để giữ người dân ở lại: từ tuyên truyền, chặn các tuyến đường dẫn đến Hải Phòng, cho đến dựng các đồn bốt dọc bờ biển. Nhiều người tị nạn đã rời bờ biển bằng thuyền hoặc bè để tìm cách lên các tàu của Pháp. Nhiều người đã chết đuối trong bão hoặc do dùng các phương tiện quá mong manh”[23].

Trong mệnh lệnh số 4, đề ngày 15/5/1955, tướng Ely – Cao ủy Pháp kiêm Tổng Tư lệnh Đông Dương – đã chính thức khép lại chương Bắc Bộ: “Tối nay, người lính Pháp cuối cùng đã rời khỏi miền Bắc Việt Nam. Thời kỳ lá cờ của chúng ta được đưa tới sông Hồng và biên giới Trung Hoa nay đã kết thúc”[24]…■

Ivan Cadeau[1]

Lê Hằng Nga (dịch)

Chú thích:

[1] Ivan Cadeau, sĩ quan kiêm nhà sử học người Pháp chuyên nghiên cứu chiến tranh Triều Tiên và chiến tranh Đông Dương (người dịch).

[2] Chính phủ Laniel sụp đổ đã đưa Mendès France lên hàng đầu chính trường. Ông được bổ nhiệm làm Thủ tướng trong đêm 17, rạng sáng ngày 18/6/1954 và đưa ra lời cam kết: nếu đến ngày 20/7/1954 mà không đạt được thỏa thuận nào tại Genève, ông sẽ từ chức. Tuy nhiên, trong quá trình đàm phán, ông vẫn thể hiện thái độ cứng rắn và để ngỏ khả năng tiếp tục cuộc chiến bằng cách gửi quân chính quy và quốc tế hóa cuộc chiến. Các thỏa thuận thực sự được ký vào lúc 3 giờ 20 phút sáng ngày 21/7/1954.

[3] Một vài tác giả cho rằng cuộc chiến bắt đầu vào ngày 19/12/1946. Thật vậy, từ ngày đó, các cuộc đàm phán đạt được trước đó chính thức tan vỡ. Những người khác, trong đó có tôi, cho rằng xung đột khởi đầu từ năm 1945, khi người Pháp trở lại Viễn Đông, trong bầu không khí vừa ngấm ngầm chiến tranh, vừa xen kẽ giữa thương lượng và các hoạt động quân sự.

[4] SHD/DAT, 7 U 3057, báo cáo về tinh thần của Tiểu đoàn dù số 7, ngày 8/12/1954.

[5] Bodin Michel, Les combattants francais face à la guerre d’Indochine, 1945 – 1954, L’Harmattan, 1998, tr. 209

[6] Dalloz Jacques, La guerre d’Indochine, 1945 – 1954, Point Seuil, Histoire, 1987, tr.251

[7] Ba quốc gia tạo thành Liên bang Đông Dương, theo Hiến pháp của Đệ tứ Cộng hòa, là một phần của Liên hiệp Pháp. Theo điều 60 của Hiến pháp, các quốc gia này được coi là “các quốc gia liên kết” với nước Pháp chính quốc và các lãnh thổ hải ngoại.

[8] Ngày 22/1/1952, tại Sài Gòn, một cơ quan chuyên trách tù binh được thành lập, “nguồn thông tin chính lấy từ mọi tin tức thu thập được từ tù binh, người trốn thoát hoặc được trả tự do”. SHD/DAT, 10 H 316, thẩm vấn tù binh chiến tranh hồi hương từ các trại của Việt Minh.

[9] SHD/DIMI, 1 R 239, hồ sơ về vấn đề các chiến sĩ của CEFEO bị bắt và mất tích cũng như việc hồi hương hài cốt của các binh sĩ CEFEO tử trận tại Đông Dương. Không tính đến 13.000 người bản xứ phục vụ trong CEFEO, dù trong đơn vị chiến đấu hay trong các lực lượng yểm trợ, hậu cần.

[10] CMC là cơ quan đảm bảo thực hiện Hiệp định Genève và triển khai các điều khoản của hiệp ước. Thành phần gồm một phần người Pháp và một phần người Việt.

[11] SHD/DIMI, 1 R 239, điện tín gửi các Quốc gia liên kết, về việc lính lê dương mất tích được cho là bị bắt. Trong số đó có 1.009 người Đức, 80 người Ba Lan, 58 người Hungary và 49 người Tiệp Khắc.

[12] Dalloz Jacques, Dictionnaire de la guerre d’Indochine, 1945 – 1954, Armand Colin, 2006, tr78. Ngoài ra, có khoảng 400 lính Pháp chính quốc, số lượng tương đương người Bắc Phi và khoảng 100 người Châu Phi cũng được cho là đào ngũ.

[13] SHD/DIMI, 1 R 239, lính đào ngũ hiện diện tại miền Bắc Việt Nam, tháng 4/1956.

[14] SHD/DIMI, 1 R 239, lính đào ngũ hiện diện tại miền Bắc Việt Nam, cuối năm 1956.

[15] Như trên.

[16] GCMA phát triển dưới thời tướng de Lattre (1951), có nhiệm vụ dựa vào các lực lượng kháng chiến người dân tộc thiểu số kịch liệt chống Việt Minh nhằm tổ chức lực lượng chống du kích, phá hủy tiềm lực quân sự, chính trị, tâm lý, xã hội và kinh tế của đối phương. Hiệu quả là GCMA vừa cung cấp tin tức cho bộ chỉ huy quân sự Pháp, vừa tạo ra bất ổn ở hậu phương và trên các tuyến giao thông của Việt Minh.

[17] SHD/DAT, 10 H 405, báo cáo tinh thần của trung đoàn 62e BG, quý II/1954, ngày 8/12/1954.

[18] Bodard Lucien, La guerre d’Indochine, Grasset, Paris, 1997.

[19] SHD/DAT, 10 H 2663, phản hồi của Pháp về Bản ghi nhớ cáo buộc Liên hiệp Pháp vi phạm Hiệp định Genève ngày 15/10/1954.

[20] Do số lượng sông ngòi nhiều và thiếu công trình kiên cố tại Đông Dương, nhiều phà và phương tiện vượt sông gồm nhiều cầu phao được sử dụng là điều cần thiết.

[21] SHD/DAT, 10 H 968, bản tin hoạt động tháng 4/1955 và bản tin tháng 5/1955.

[22] SHD/DAT, 10 H 248, vấn đề viện trợ của Pháp cho người tị nạn dân sự Việt Nam, ngày 11/10/1954.

[23] Tướng Gras, Histoire de la guerre d’Indochine, Denoel, Bộ sưu tập L’aventure coloniale de la France, 1992, tr. 581.

[24] SHD/DIMI, 1 R 238, mệnh lệnh số 4 ngày 15/5/1955.

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN