
Tạp chí Phương Đông xin giới thiệu tới độc giả bản dịch tài liệu năm 1966 của Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) đã được giải mật, trong đó CIA cân nhắc các kịch bản Mỹ sẽ sử dụng đến vũ khí hạt nhân trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam, đồng thời đưa ra dự đoán về phản ứng của các quốc gia trên thế giới nếu “điều cấm kỵ suốt 20 năm qua bị phá vỡ”.
Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ
Văn phòng Đánh giá Quốc gia
(TUYỆT MẬT)
Ngày 18/3/1966
BẢN GHI NHỚ GỬI GIÁM ĐỐC
NỘI DUNG: Việc sử dụng vũ khí hạt nhân trong Chiến tranh Việt Nam
NHỮNG NHẬN ĐỊNH CHÍNH
A. Việc Hoa Kỳ sử dụng vũ khí hạt nhân trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam sẽ là một trong những sự kiện trọng đại nhất lịch sử hiện đại. Phản ứng của thế giới sẽ bị tác động ở một mức độ nào đó bởi hoàn cảnh mà Mỹ sử dụng đến vũ khí hạt nhân, và các mục tiêu bị tấn công. Nhưng gần như độc lập với những yếu tố này sẽ là một ác cảm rất lớn và rộng khắp về việc Hoa Kỳ đã phá vỡ điều “cấm kỵ” suốt 20 năm qua về sử dụng vũ khí hạt nhân.
B. Một trong số các hệ quả sẽ là sự kích động dữ dội ở Nhật Bản, có thể dẫn tới việc hạn chế cho Hoa Kỳ sử dụng các cơ sở vật chất của Nhật và lên án hiệp ước quốc phòng Mỹ – Nhật; có thể sẽ có một số động lực gia tăng hướng tới việc phổ biến hạt nhân; nhưng kèm theo đó sẽ là áp lực quốc tế đòi giải giáp hạt nhân, với rất ít sự kiên nhẫn về tính kỹ thuật của việc xác minh; có thể là một nghị quyết lên án tại Liên hợp quốc; và suy giảm đáng kể sự ủng hộ của công chúng mà hiện tại chính sách của Mỹ ở Việt Nam đang có được.
C. Có thể sau khi Hoa Kỳ đã sử dụng vũ khí hạt nhân thì những người Cộng sản Trung Quốc sẽ quyết định từ bỏ, nhưng chúng tôi nghĩ rằng khả năng họ không làm như vậy sẽ lớn hơn, họ sẽ hy vọng rằng những thiệt hại tích lũy của Mỹ cùng áp lực ngày càng gia tăng của cả thế giới sẽ buộc Mỹ phải lùi bước. Bắc Việt sẽ bị hạ xuống vai trò thứ yếu hơn. Liên Xô sẽ hành động mạnh mẽ để chống lại Hoa Kỳ trên cả mặt trận chính trị và tuyên truyền; chúng tôi không tin rằng Liên Xô sẽ bước vào cuộc chiến hay ủng hộ người Trung Quốc bằng vũ khí hạt nhân.
THẢO LUẬN
I. Các kịch bản
1. Báo cáo này sẽ lập luận rằng các phản ứng quốc tế đối với việc Hoa Kỳ sử dụng vũ khí hạt nhân trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam sẽ được quyết định phần lớn bởi thực tế rằng vũ khí đó là hạt nhân, chứ không phải bởi hoàn cảnh mà chúng được sử dụng hay những sự khiêu khích có thể đã khiến Hoa Kỳ sử dụng chúng. Tuy nhiên, hoàn cảnh cũng sẽ tạo ra một vài khác biệt, ít nhất là ở một số phương diện nhất định. Sau đây là danh sách các kịch bản có thể hình dung ra được, bắt đầu bằng kịch bản mà việc Hoa Kỳ sử dụng vũ khí hạt nhân sẽ là khó biện minh nhất trong mắt thế giới nói chung và ít phù hợp nhất với kỳ vọng của phe Cộng sản, và tiếp đến là các kịch bản ở cực bên kia trong thang điểm đánh giá này.
a. Tình hình quân sự ở Nam Việt Nam về cơ bản vẫn như hiện tại; Hoa Kỳ sử dụng vũ khí hạt nhân vì thất vọng do không thể đạt được quyết định nào bằng các biện pháp thông thường.
b. Hoa Kỳ xâm lược Bắc Việt, bằng đường bộ hoặc đường biển, hoặc cả hai; Cộng sản Trung Quốc can thiệp bằng lực lượng chiến đấu quy mô lớn, hoặc một cách bí mật hoặc bằng lực lượng “tình nguyện”, và lực lượng Hoa Kỳ ở Bắc Việt Nam cảm thấy họ có nguy cơ bị hủy diệt.
c. Hoa Kỳ không xâm lược Bắc Việt. Nhưng quân đội Bắc Việt, cộng thêm các lực lượng mặt đất của Cộng sản Trung Quốc, sẽ tung ra chiến dịch tấn công công khai quy mô lớn nhất vào Nam Việt Nam, là điều họ hoàn toàn có khả năng, trên khắp và xung quanh khu phi quân sự. Họ cũng có thể tiến vào bắc Lào với lực lượng mạnh. Các lực lượng của Hoa Kỳ và Nam Việt Nam có thể có hoặc không bị đe dọa nghiêm trọng; trong bất kỳ tình huống nào thì một giai đoạn mới trong cuộc chiến sẽ được mở ra do sự chủ động của phía Trung Quốc và Bắc Việt.
d. Khu vực xung đột được mở rộng do sự chủ động của những người Cộng sản Trung Quốc, liên quan tới việc xâm lược Lào, Thái Lan, và có lẽ cả Miến Điện.
e. Chính những người Cộng sản Trung Quốc sử dụng vũ khí hạt nhân trước.
2. Hai kịch bản đầu và cuối ở trên có vẻ không cần phải xem xét kỹ lưỡng; chúng có quá ít khả năng xảy ra tới mức hầu như không thể xảy ra, và chúng được đưa vào chỉ để minh họa cho khả năng xảy ra các tình huống khác với những tình huống mà chúng ta sẽ thảo luận. Trong 3 kịch bản ở giữa, chắc chắn sẽ có nhiều tình huống đi kèm tác động đến tình hình và có thể làm thay đổi chút ít các phán xét của thế giới về phản ứng hạt nhân của Mỹ, và làm thay đổi các phản ứng với nó. Do tác động của những biến đổi đó hầu như chắc chắn là sẽ rất nhỏ, nên có lẽ không cần phải nghiên cứu chi tiết về chúng. Phần thảo luận sau đây áp dụng chủ yếu với kịch bản (c) – một cuộc xâm lược quy mô lớn của Cộng sản vào Nam Việt Nam – nhưng chúng tôi cũng nói tới những khác biệt về phản ứng có thể xảy ra trong các kịch bản (b) hoặc (d).
II. Các phản ứng trong thế giới phi cộng sản
3. Trong thế giới phi cộng sản có rất nhiều người không biết hoặc không quan tâm nhiều đến vũ khí hạt nhân và sẽ không phản ứng gì nếu Hoa Kỳ sử dụng chúng ở Việt Nam, đặc biệt là nếu mối nguy hiểm dường như ở cách xa họ. Có những chính phủ, cho dù các tuyên bố công khai của họ về đề tài này là gì, sẽ vì các lợi ích quốc gia cụ thể của họ mà cảm thấy vui mừng khi nhìn thấy chế độ Cộng sản Trung Quốc bị hủy hoại theo cách này. Có những cá nhân và chính phủ sẽ coi Hoa Kỳ là yếu ớt nếu để một lượng lớn trong lực lượng vũ trang của mình bị hủy hoại mà không cố gắng cứu vớt bằng cách sử dụng vũ khí hạt nhân. Và cũng có một số chính phủ sẽ coi Hoa Kỳ là ngốc nghếch nếu chấp nhận thất bại hoặc thậm chí là thỏa hiệp trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam mà không dùng đến yếu tố sức mạnh quân sự đáng gờm nhất của mình.
4. Cùng những khả năng này và có lẽ là thêm một số ngoại lệ khác, thì trong lĩnh vực quan hệ quốc tế có lẽ sẽ không có quan điểm nào phổ biến hơn quan điểm cho rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân là đáng ghê tởm. Bất kỳ động thái sử dụng bất kỳ vũ khí hạt nhân nào của Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam cũng sẽ bị coi là một trong những sự kiện đáng sợ nhất và định mệnh nhất trong lịch sử hiện đại. Phản ứng của thế giới sẽ bị ảnh hưởng ở một mức độ nào đó bởi hoàn cảnh mà Mỹ sử dụng chúng và loại vũ khí cùng các mục tiêu liên quan. Nhưng gần như độc lập với những yếu tố này sẽ là một ác cảm rất lớn rằng Hoa Kỳ đã phá vỡ điều “cấm kỵ” suốt 20 năm qua về sử dụng vũ khí hạt nhân.
5. Việc ném bom hạt nhân Nhật Bản năm 1945 vẫn đang bị rất nhiều người lên án, không chỉ ở nước ngoài mà ngay cả ở trong nước Mỹ. Tuy nhiên, hầu hết các ý kiến có hiểu biết đều nhận ra rằng điều đó chỉ nhằm mục đích đẩy nhanh cái kết của một cuộc chiến tranh thế giới kéo dài và đẫm máu. Quan trọng hơn cả là nó được coi như một khoảnh khắc tồi tệ trong lịch sử đã xảy ra gần một thế hệ trước và không bao giờ nên lặp lại.
6. Trong những năm qua, thế giới nhìn chung là ngạc nhiên và thở phào khi phát hiện ra rằng cuộc chạy đua hạt nhân Mỹ – Xô, chứ không phải một cuộc chiến tranh vội vã giữa hai cường quốc này, là nhằm làm cho một cuộc chiến tranh như vậy trở thành điều “không thể tưởng tượng được”. Do đó, bom và đầu đạn hạt nhân có xu hướng được coi là những loại vũ khí sẽ không bao giờ được sử dụng trừ trường hợp thế giới muốn tự hủy diệt mình. Có vẻ như khả năng xảy ra một thảm họa hạt nhân đã giảm đáng kể trong những năm gần đây bởi hai siêu cường được dẫn dắt bởi những chính phủ có trách nhiệm sẵn sàng làm mọi cách để thấy rằng vũ khí hạt nhân sẽ không bao giờ được sử dụng nữa.
7. Việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam, bất kể trong hoàn cảnh nào, sẽ gây ra một làn sóng sợ hãi và tức giận trên phần lớn thế giới hiểu biết. Cảm giác chung sẽ là một khi điều cấm kỵ bị phá vỡ, sẽ không còn rào cản hiệu quả nào đối với việc sử dụng rộng rãi các loại vũ khí này. Mọi người sẽ lo sợ rằng những người Cộng sản cũng sẽ đáp trả tương tự nếu họ có, hoặc có thể có được, khả năng hạt nhân. Phía sau tất cả những điều này sẽ là một nỗi sợ hãi rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân có thể dẫn tới một cuộc chiến tranh hạt nhân nói chung, đe dọa cả thế giới.
8. Hầu hết bạn bè của Hoa Kỳ sẽ buộc tội Hoa Kỳ đã kéo thế giới vào một giai đoạn mới khủng khiếp trong lịch sử, nơi vũ khí hạt nhân trở thành loại vũ khí hiệu quả của thời đại. Các nghị quyết lên án sẽ được đưa ra tại Liên hợp quốc với khả năng cao sẽ giành được đa số phiếu tán thành. NATO sẽ bị lung lay tệ hại. Sự ủng hộ công khai mà chính sách Việt Nam của Hoa Kỳ hiện đang nhận được từ một số chính phủ, đặc biệt là ở châu Âu, sẽ chấm dứt.
9. Một chính phủ Anh không thể công khai lên án việc đưa vũ khí hạt nhân vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam có thể sẽ sụp đổ. Ở Nhật Bản, ký ức về Hiroshima và Nagasaki sẽ khiến người dân đặc biệt giận dữ về việc Hoa Kỳ sử dụng vũ khí hạt nhân lần thứ 2 ở châu Á. Tối thiểu thì Thủ tướng Sato sẽ thấy buộc phải chấm dứt sự ủng hộ của mình đối với chính sách của Hoa Kỳ, và đặc biệt là hạn chế việc Hoa Kỳ sử dụng các cơ sở vật chất của Nhật. Nhiều khả năng Đảng Dân chủ Tự do (LDP) sẽ thay thế Sato bằng một người khác ít công khai thân Mỹ hơn. Có thể dưới sự thúc giục của phe tả, phản ứng của công chúng sẽ dẫn tới việc buộc phải đóng cửa các căn cứ của Mỹ hoặc thậm chí là phản đối Hiệp ước quốc phòng Mỹ – Nhật. Hầu hết các ý kiến ở Ấn Độ và trong chính phủ Ấn Độ sẽ lên án mạnh mẽ hành động của Hoa Kỳ, mặc dù một số lãnh đạo Ấn Độ sẽ thở phào khi thấy những người Cộng sản Trung Quốc phải thoái lui, và một số sẽ thấy hài lòng một cách bí mật nếu các cơ sở hạt nhân của Trung Quốc bị phá hủy. Phản ứng lên án nói chung của Ấn Độ sẽ giảm đi phần nào nếu vũ khí hạt nhân được sử dụng để ngăn chặn một cuộc xâm lược của Trung Quốc vào Đông Nam Á.
10. Việc sử dụng rất hạn chế các loại vũ khí chiến thuật chỉ ở những khu vực chiến đấu trực tiếp sẽ tạo phản ứng ít bạo lực hơn trong các giới tinh hoa, so với việc ném bom nguyên tử các sân bay, trung tâm đường sắt và địa điểm sản xuất hạt nhân của Trung Quốc. Nhưng với đa phần thế giới thì sự khác biệt cũng không lớn lắm; điều quan trọng chỉ là các loại vũ khí đó đã được sử dụng. Hoàn cảnh sử dụng chúng cũng sẽ có một số tác động tới các phản ứng. Phản ứng nghiêm trọng nhất sẽ xảy ra nếu Hoa Kỳ xâm lược Bắc Việt (kịch bản “b”); mặt khác, các phản ứng tiêu cực sẽ giảm bớt nếu vũ khí hạt nhân được sử dụng như con bài cuối cùng để ngăn chặn Cộng sản Trung Quốc tràn ra toàn bộ Đông Nam Á. Thực tế, trong trường hợp này sẽ có một vài sự ủng hộ tích cực được thể hiện.
11. Ngoài những phản ứng trực tiếp này, sẽ có những tác động khác gây ảnh hưởng gia tăng trong tương lai. Có thể sẽ có một làn sóng áp lực quốc tế đòi giải trừ ngay lập tức trong lĩnh vực hạt nhân. Hầu hết áp lực này sẽ nhắm vào Hoa Kỳ bởi Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất đã sử dụng loại vũ khí này, và sẽ có rất ít sự kiên nhẫn khi Hoa Kỳ tiếp tục nhấn mạnh yêu cầu điều tra. Tuy nhiên, có thể một phần áp lực sẽ chuyển hướng sang Liên Xô dưới hình thức các yêu cầu giải trừ “thực sự” và “được xác minh”.
12. Nhưng nghịch lý thay, cũng có thể sẽ có một động lực tăng cường hướng tới việc phổ biến hạt nhân. Việc Hoa Kỳ sử dụng vũ khí hạt nhân sẽ “hợp pháp hóa” loại vũ khí này và thể hiện tầm quan trọng then chốt cùng tính thực tiễn của chúng trong các cuộc chiến tranh ngày nay, khiến một số chính phủ cảm thấy họ cần phải có những loại vũ khí đó trong kho vũ khí của mình. Đồng thời, các lập luận chống phổ biến hạt nhân của Mỹ sẽ không còn uy tín đạo đức và vướng phải những phản ứng hoài nghi.
III. Phản ứng của các quốc gia cộng sản chủ chốt
13. Nước Trung Quốc Cộng sản. Các lãnh đạo Cộng sản Trung Quốc ý thức khá rõ về kho hạt nhân hùng mạnh của Hoa Kỳ. Khi chấp nhận một chính sách có tính đến khả năng chiến tranh với Hoa Kỳ, chắc chắn họ đã tính đến khả năng các loại vũ khí hạt nhân sẽ được sử dụng. Có thể họ đã kết luận rằng áp lực quốc tế và trong nước sẽ ngăn cản Hoa Kỳ sử dụng vũ khí hạt nhân trong bất kỳ hoàn cảnh nào, trừ khi có một mối đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của quốc gia. Tuy nhiên, họ không thể chắc chắn về điều này, và các kế hoạch của họ chắc hẳn bao gồm cả những nước đi trong tình huống vũ khí hạt nhân được sử dụng.
14. Có thể khi Hoa Kỳ sử dụng vũ khí hạt nhân, Trung Quốc sẽ hành động theo hướng từ bỏ, nhất là khi họ không nghĩ Hoa Kỳ sẽ làm vậy. Nhưng chúng tôi nghĩ rằng nhiều khả năng một khi đã cam kết thì người Trung Quốc sẽ cố gắng tiếp tục bất chấp vũ khí hạt nhân. Với niềm tin rằng cuối cùng họ sẽ chiến thắng, họ có thể sẽ tiếp tục dấn bước, chấp nhận các hậu quả về quân sự trong khi cố gắng tối thiểu hóa chúng bằng các chiến thuật chiến đấu áp sát, phân tán, và tăng cường chiến tranh du kích phía sau chiến tuyến của Mỹ. Do đó họ cũng sẽ hy vọng kéo dài cuộc chiến đấu tới khi những thiệt hại tích lũy của Mỹ cùng áp lực quốc tế tăng cao sẽ buộc Mỹ phải lùi bước.
15. Liên Xô. Moscow sẽ cảnh giác với viễn cảnh leo thang tiếp tục buộc họ phải đối đầu hạt nhân với Mỹ. Họ sẽ có những bước đi trên mọi mặt trận để giảm thiểu khả năng tình hình diễn biến như vậy. Họ sẽ hành động dữ dội trên mặt trận chính trị và tuyên truyền, cố tạo đủ áp lực quốc tế ở bên trong và bên ngoài Liên hợp quốc để buộc Mỹ phải xuống thang. Có thể Liên Xô sẽ thấy buộc phải cảnh báo Mỹ rằng Liên Xô sẽ ủng hộ Trung Quốc bằng viện trợ quân sự. Nhưng đồng thời, họ cũng sẽ thể hiện rõ với Bắc Kinh không nên dựa vào vũ khí hạt nhân của Liên Xô. Gần như chắc chắn họ sẽ không cung cấp vũ khí hạt nhân nào cho Trung Quốc.
16. Bắc Việt. Khi chiến tranh đã mở rộng tới mức Trung Quốc trực tiếp tham gia và vũ khí hạt nhân được sử dụng, thì Bắc Việt sẽ bị hạ xuống vai trò thứ yếu hơn. Quân đội Nhân dân Việt Nam/Việt Cộng sẽ duy trì một năng lực đáng kể ở miền Nam, nhưng xét toàn cảnh thì họ sẽ chỉ trở thành lực lượng phụ trợ cho lực lượng Trung Quốc. Trong trường hợp việc sử dụng vũ khí hạt nhân khiến Bắc Việt quá hoảng hốt, tới mức họ muốn rời khỏi cuộc chiến, thì sự can dự và hiện diện của Trung Quốc có thể sẽ ngăn chặn lựa chọn này. Họ chỉ có thể chấm dứt cuộc chiến nếu Bắc Kinh đồng ý.
IV. Những tác động dài hạn hơn
17. Nếu việc sử dụng chiến thuật các loại vũ khí hạt nhân có thể khiến Trung Quốc “quay đầu” và giúp dẫn tới một giải pháp nhanh chóng và có lợi ở Việt Nam, Hoa Kỳ sẽ có rất nhiều lợi ích để bù đắp cho những thiệt hại đã nhắc ở trên. “Không gì thành công bằng sự thành công”, và nhiều người sẽ tha thứ cho Hoa Kỳ khi mối nguy hiểm không còn nữa. Các đồng minh châu Á của Hoa Kỳ sẽ cảm thấy an toàn hơn nhiều trước nguy cơ xâm phạm của Trung Quốc. Bắc Kinh, phải lùi bước một cách tệ hại, sẽ mất danh tiếng, và điều này có thể dẫn tới việc quần chúng và các lãnh đạo trẻ hơn trong Đảng sẽ đánh giá lại về giới lãnh đạo. Người Liên Xô sẽ có thêm nỗi sợ hãi và sự tôn trọng đối với những người theo đường lối cứng rắn của Mỹ; niềm tin vững chắc của họ về mối nguy hiểm của “các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc” sẽ được khẳng định. Đồng thời, ở Liên Xô, những người ủng hộ phát triển quân sự và không mấy nhiệt tình với hòa hoãn sẽ có thêm tiếng nói.
18. Nếu Mỹ sử dụng vũ khí hạt nhân tương đối kiên trì mà vẫn không khiến Trung Quốc lùi bước hay nhanh chóng kết thúc được cuộc chiến, thì kết quả sẽ rất nghiêm trọng. Hoa Kỳ và loại vũ khí được ca ngợi nhất của họ sẽ thể hiện sự bất lực (khi so sánh tương quan) trong việc đương đầu với một “cuộc đấu tranh cách mạng”, trước sự hài lòng và lợi thế của Bắc Kinh. Đồng thời, Hoa Kỳ sẽ phải trả toàn bộ cái giá chính trị của việc khơi mào sử dụng những vũ khí này.
19. Tất nhiên vẫn còn câu hỏi về hậu quả của việc không sử dụng vũ khí hạt nhân, và chấp nhận một thảm họa quân sự, có lẽ là tiến tới tận việc thua trong cuộc chiến này, điều mà những vũ khí này đã có thể ngăn chặn được. Một diễn biến như vậy sẽ gây những tác động sâu sắc tới vị thế của Hoa Kỳ trên thế giới cũng như cán cân quyền lực ở châu Á. Tuy nhiên, việc nghiên cứu những tác động này đòi hỏi phải xem xét toàn bộ các mục tiêu và chính sách của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á, và không nằm trong phạm vi báo cáo này.
ABBOT SMITH
Quyền Chủ tịch
Hoàng Anh (dịch)