
Năm 1967, các nhà báo Peter White và Winfield Parks của tạp chí National Geographic đã thăm Huế để tìm hiểu về niềm tin, lịch sử và lối sống của người Việt – những gì ẩn sau hàng loạt tin tức về chiến tranh tràn ngập trên các trang báo Mỹ. Không chỉ chứa đựng những miêu tả, nhận xét tinh tế về văn hóa Việt Nam, phóng sự của hai nhà báo này, xuất bản tháng 2/1967, còn có nhiều bức ảnh màu sống động. Tạp chí Phương Đông trân trọng giới thiệu với bạn đọc.
Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết – và tiền
Các ao và hào nước trong Kinh thành ngập tràn cây sen, và tôi thấy hoa sen trong các bình hoa, lá sen trong trà, hạt sen trong cơm. “Một biểu tượng của Huế, một biểu tượng của sự thuần khiết”, Tráng nói. “Nó mọc lên từ bùn, nhưng lại có mùi rất thơm; điều đó có nghĩa là một người tốt sẽ không bị khuất phục trước ảnh hưởng xấu”.
“Cây sen mang lại một phần hai mươi tổng thu nhập của thành phố”, ông Nguyễn Rô, Phó Tỉnh trưởng phụ trách hành chính và tài chính, cho biết. “Từng phần mặt nước được thành phố đem cho thuê. Những người được nhượng quyền khai thác có thể bán hạt sen, hoa sen và cá sống trong đó”.
Các thư ký trao cho ông Rô những tập hồ sơ với nhiều số liệu hơn. Huế được chia thành ba quận, 21 thôn (ấp) và 11 làng thuyền tam bản (vạn đò). Thành phố có 200 con bò và khoảng 600 ô tô, cộng với 70.000 xe đạp. Các nghệ nhân làm việc tại nhà với tre đã tạo ra 120.000 chiếc túi đan mỗi năm và 200.000 chiếc nón lá.
“Sản lượng nón lớn nhất ở Việt Nam”, ông Rô cho biết. “Nón có chất lượng tốt nhất. Cầm một chiếc nón giơ lên dưới nắng, bạn có thể đọc thấy một bài thơ viết trên giấy được kẹp giữa hai lớp lá tre của chiếc nón”.
Tràn ngập như hoa sen là những tấm bình phong được đặt trước hầu hết các cánh cửa vài feet[1]. Chúng được làm bằng tre đan hoặc bê tông, một số được trang trí bằng hình sư tử ghép từ các mảnh sứ vụn nhiều màu sắc. Một số là hàng rào được cắt tỉa gọn gàng, hoặc chỉ đơn giản là mảnh vải treo trong làn gió nhẹ. Tất cả đều có cùng một mục đích – ngăn chặn ma quỷ tiến thẳng vào cửa.
Tráng bảo: “Anh có thấy dãy núi tự nhiên vuông vức, cách đây hai dặm? Tên nó là Ngự Bình, bức bình phong của Hoàng đế. Nó chặn không cho ma quỷ vào Hoàng thành”.
Trên sườn núi Ngự Bình và xung quanh Huế mọc lên hàng ngàn ngôi mộ nằm rải rác giữa những ruộng lúa và những mảnh sân sau nhà, hay nằm ven đường, suối và kênh rạch: Một số chỉ là những gò đất, một số là những công trình trang trí công phu. Tìm chỗ thích hợp để đặt mộ cũng là một bổn phận quan trọng như thờ phụng tổ tiên. Vì nếu mộ của một người không được đặt ở vị trí thuận lợi, hôn nhân của con gái ông ta không thể ích vượng và con trai ông ta chắc chắn sẽ bị hủy hoại.
Giúp mọi người chọn những ngôi đất tốt là nhiệm vụ của những người như ông Nguyễn Hạnh [?]. Ông 73 tuổi, mặc áo màu lam Huế, và khi chúng tôi rảo bước đến gần Ngự Bình, ông dừng lại trước một ngôi mộ trong một ruộng sắn. Nó được bao bọc bởi một bức tường cao đến thắt lưng với những bông sen bằng đá ở trên.
“Họ Nguyễn Khoa”, ông Hạnh nói. “Một thế đất tuyệt vời. Các con trai của vợ chồng ông này đều vươn lên các chức vụ cao cấp”.
Chúng tôi đi ngang qua một ngôi mộ được tô điểm cầu kỳ hơn rất nhiều với hai con phượng hoàng bằng đá cao mười feet đứng chầu hai bên.
“Đây là nơi an nghỉ của một vị quan lớn”, ông Hạnh nói. “Tất cả con cái của ông ấy đều gặp bất hạnh. Chính ngọn đồi phía sau ngôi mộ đó, rất tệ”.
Rất ít ngôi mộ được chăm sóc cẩn thận. Nhiều ngôi mộ trông rất bừa bộn.
“Điều đó không quan trọng”, ông Hạnh nói “Vị trí mới quan trọng, hài hòa với các thế lực thiên nhiên”.
Và ông chỉ ra những dấu hiệu của những thế lực đó xung quanh chúng tôi, những đặc điểm tự nhiên mà ông ấy gọi là con rết, con rắn quấn mình quanh quả trứng, con rắn đang lắng nghe, cô gái đang cầm hoa. Tôi không thể nhìn thấy chúng.
“Việc này đòi hỏi nhiều kinh nghiệm”, Tráng nói, “nhiều trí tuệ”.
Ông Hạnh giải thích rằng mỗi người phù hợp với những địa thế khác nhau. Ông hỏi tuổi tôi và nói: “À, sinh năm Sửu. Con khỉ tốt cho ông. Hoặc con gà. Con trâu hợp với con khỉ và con gà”.
Ông Hạnh bảo rằng quanh chúng tôi là biểu hiện của những quyền lực sâu xa nhất: con hổ trắng – nguyên lý âm, tiêu cực, đe dọa; và con rồng xanh – nguyên lý dương, tích cực, nhân từ. Những lực này gặp nhau trong sự cân bằng hài hòa tại Hoàng thành, nơi đặt ngai vàng, cách đây hai dặm rưỡi. Đó là lý do tại sao ngai vàng được đặt ở đó.
Tôi mời ông Hạnh xem phòng của tôi, và ông nhìn qua cửa sổ, thấy con sông, đường sá và cây cầu.
“Không phải là một chỗ tốt”, ông nói. “Nhưng không đến nỗi tệ để ông phải chuyển đi. Tôi nghĩ ông nên thay đổi vị trí giường”.
Từ trong túi, ông lấy ra một chiếc la bàn. Sau đó, ông bảo tôi lấy cho ông một đoạn dây. Bằng những thứ này, ông điều chỉnh chiếc giường theo trục bắc nam, sao cho nó hướng theo đường chéo của căn phòng.
“Bàn chân của ông nên hướng về phía nam, vì vậy ông phải chuyển chiếc gối xuống chân giường”.
Tôi cảm ơn ông Hạnh bằng những món quà thích hợp – một gói trà và một ít tiền đựng trong phong bì đỏ dành cho các cháu ông, vì màu đỏ tượng trưng cho sự may mắn. Đêm đó tôi ngủ ngon hơn nhiều, rõ ràng là hòa hợp hơn với các thế lực tự nhiên. Việc di chuyển giường ra khỏi góc phòng – và đầu tôi vào điểm giữa căn phòng – đã mang lại cho tôi toàn bộ lợi ích của hệ thống cửa sổ thông gió.
Ở khắp mọi nơi tại Huế, tôi thấy quanh mình là những nơi thờ cúng, những đền, chùa và nhà thờ lác đác, những bàn thờ trước nhà và bên trong hầu hết các ngôi nhà và nơi kinh doanh.
Tôn giáo của người dân là gì? Một người Việt đáng kính nói với tôi: “Chúng tôi có 30.000 người Công giáo La Mã ở Huế. Phần còn lại, chiếm số đông, họ có phải là Phật tử không? Hãy hỏi họ, và hầu hết sẽ trả lời là có. Nhưng không đơn giản đâu, đó là một vấn đề vi tế”.
Điều này không giải thích được sao?
“Thực tế là hầu hết người Việt Nam, những người được giáo dục tốt nhất cũng như những người thất học, đều tin chính xác những gì mà các vị hoàng đế đã tin tưởng. Họ tin vào đạo lý được Khổng Tử truyền bá. Họ kính phục một thứ Phật giáo mơ hồ. Trên hết, họ cúi đầu trước các thần linh – trước linh hồn của tổ tiên họ và của nhiều người khác, trước linh hồn của những vĩ nhân trong lịch sử; trước những vị thần của bầu trời và của các cánh đồng, của cây cối và động vật; trước các vị thần thiện và ác và các vị thần biến đổi ở giữa hai cực này”.
“Trong những vấn đề quan trọng nhất của đất nước và trong cuộc sống cá nhân, họ tham khảo ý kiến của những người lên đồng, các thầy pháp và thầy bói – để tìm hiểu những gì nên làm, khi nào nên làm và khi nào không. Tất cả những điều này, bạn thấy đấy, là cách của người Việt. Nếu bạn muốn, bạn cứ gọi đó là đạo Việt Nam”.
Hãy cẩn thận những ngày xấu
Tráng có nói rằng ngày 5, 14 và 23 âm lịch là những ngày xấu, rằng trong những ngày này, tốt nhất ta nên ngồi yên và đừng làm gì khác thường. Thật vậy, vào ngày 14, những người bạn đã hứa đưa tôi đi biển Thuận An đề nghị hoãn lại. Dù thế tôi vẫn đi, lái xe qua những cánh đồng lúa, đi bộ một dặm qua một con đường đắp cao nóng bỏng để đến một chiếc phà, và lê bước trên một con đường khác băng qua một bãi cát nóng bỏng để cuối cùng trôi nổi ở Biển Đông ấm áp.
Tại một quầy giải khát, tôi cắn một miếng mực khô và nhai trệu trạo rất lâu. Nó cứ nở ra trong miệng tôi và cưỡng lại khi tôi cố nuốt. Tôi bơi thêm một lần nữa và bị sóng ụp vào người. Tôi ngoi được lên bờ và phát hiện ra rằng ai đó đã lấy mất đồng hồ và con dao bỏ túi của tôi. Xui thật! Về lại Huế, đau rát vì cháy nắng, tôi bảo Tráng hủy chuyến du thuyền đã đặt cho tối hôm đó.
Tráng phản đối: “Hãy mừng vì những chuyện vớ vẩn này đã xảy ra. Điều này có nghĩa ông không cần lo sợ sự việc nghiêm trọng nào nữa. Cứ đi thôi”.
Ba nhạc sĩ và ba cô ca sĩ cùng đi du thuyền với chúng tôi trên sông Hương. Một thuyền bán đồ ăn xuất hiện, và tất cả chúng tôi đã mua súp. Sau đó, trời tối. Người nhạc sĩ bắt đầu đàn và các cô gái cất tiếng hát, khiến tôi nhớ đến bản nhạc được Nguyễn Du, nhà thơ vĩ đại nhất từng đến Huế, miêu tả. “Một rằng lưu thủy, hai rằng hành vân”.
Đây là những bài hát sầu cảm. Về những nỗi đau của tình yêu; về vẻ đẹp của dòng sông và những đêm trăng rằm; về thần tượng quen thuộc của miền Trung Việt Nam: người anh hùng chiến đấu cho chính nghĩa nhưng bại trận. “Đẹp làm sao”, Tráng thở dài, “như tiếng hót của con chim lạc lối”.
Tôi mỗi lúc một thêm sầu cho đến khi mặt trăng – vầng trăng tròn nổi tiếng của Huế – len qua những đám mây, mờ nhạt và xa xăm. Nỗi sầu muộn của tôi tan biến. Vết cháy nắng của tôi đã dịu bớt. Đó là một kết thúc dịu dàng của một ngày không lành.
Chao ôi, sự yên bình của Huế, êm dịu như làn gió thoảng qua những rặng thông của Hoàng thành, nhưng đó có thể chỉ là bề ngoài thôi! Trong đống đổ nát của một tòa nhà lớn bằng gạch và bê tông, tôi giữ thăng bằng trên gạch vụn cháy đen và những mảnh kính lởm chởm. Đây từng là Trung tâm Văn hóa Hoa Kỳ. Tôi sững sờ, như thể một trong những mảnh thủy tinh đó đã đâm vào bụng tôi.
“Chúng tôi có 10.000 cuốn sách”, Albert Ball của Sở Thông tin Hoa Kỳ cho biết. “Hàng nghìn người đã mượn chúng và đến xem các bài giảng và chiếu phim của chúng tôi. Chúng tôi có những tạp chí y khoa tốt nhất…”.
Ball nhặt lên một bức ảnh nhòe nhoẹt của Tổng thống Kennedy.
“Chúng tôi nỗ lực rất nhiều ở Huế vì đây là thánh địa của nền văn minh Việt Nam. Chúng tôi nghĩ rằng nếu có thể giúp đỡ các sinh viên đại học, chúng tôi sẽ củng cố được đội ngũ lãnh đạo đất nước – giúp họ xác định được đường hướng và cùng nhau hợp sức. Nhưng Huế còn là vùng đất của những mánh khóe, những âm mưu và những phản âm mưu, và sự bất tin tưởng lẫn nhau”.
Kinh đô này đã trở thành nạn nhân sau cuộc nổi dậy gần đây ở miền trung Việt Nam. Các nhà sư Phật giáo, tuyên xưng một chủ nghĩa dân tộc Việt Nam của riêng họ, tuần hành thách thức chính quyền Sài Gòn. Những người lính Việt Nam đứng im trong khi sinh viên cầm súng lục và lựu đạn yêu cầu Hoa Kỳ ngừng hỗ trợ chính phủ đó. Khi Tổng thống Johnson từ chối can thiệp vào chuyện nội bộ Việt Nam này, sinh viên đã tìm cách gây áp lực với Tổng thống bằng cách phá hoại Trung tâm Văn hóa Hoa Kỳ.
“Tôi không đổ lỗi cho người dân Huế”, Ball nói. “Đó là hành động của một vài người. Một số người trong số họ đã từng đến nhà tôi, nhưng người Việt là thế đấy. Các mối quan hệ cá nhân chẳng có nghĩa lý gì đối với họ khi họ đấu tranh cho một nguyên lý”.
Đối với một số người, cuộc sống của chính họ cũng không có ý nghĩa gì. Trong một ngôi chùa Phật giáo bên trong Kinh thành, trên một bàn thờ nhỏ chất đầy hương hoa, tôi thấy bức ảnh của một nữ sinh trung học. Cô ấy tên là Nguyễn Thị Vân, và trước cổng chùa này, vào lúc cao điểm của cuộc nổi loạn, cô đã đổ hai lít xăng lên người rồi tự thiêu.
“Nhiều người muốn làm điều này nhưng chúng tôi đã ngăn họ lại”, một nhà sư nói với tôi. “Chúng tôi cũng cố gắng ngăn cô ấy lại nhưng không được”.
Bên ngoài, trong sân chùa, mảnh áo trắng cháy xém của cô vẫn còn đó.
Xoáy lông vàng mang lại sức khỏe tốt
Giọng nói của những cô gái con nhà lành, the thé và gần như không nghe được – chẳng phải đó là tinh hoa của sự nhu mì hay sao?
“Nguy hiểm!”, Tráng nói. “Mấy người phụ nữ miền Trung Việt Nam này – lấy một cô và cô ta sẽ biến thành con hổ”. Những người bạn đến từ Huế không phủ nhận rằng phụ nữ của họ có vị thế mạnh hơn nhiều so với những gì thể hiện ra trước những người nước ngoài. Người vợ là thủ quỹ của gia đình, người giữ vàng bạc. Tất nhiên, vàng là tài sản của gia đình. Nếu cần tiền mặt, anh có thể bán đi một ít vàng – nhưng chỉ người vợ mới biết nơi giấu vàng.
Đối với những người dân xung quanh Huế – những người nông dân trên những mảnh ruộng trù phú, bằng phẳng – một con trâu quý như vàng và thậm chí còn đáng quý hơn vì nó có tình cảm. Chỉ rất ít người có thể mua được một con. Ở Việt Nam, người ta sẽ rất mừng nếu kiếm được tiền để thuê một con trâu kéo cày.
Đó là lý do tại sao bé Cho Em may mắn đến thế. Bé không chăn trâu cho một người lạ giàu có nào đó. Con trâu này, tên là Pháo, thuộc về cha của em.
Pháo là một con trâu rất tốt: chín tuổi, từ sừng đến đuôi dài gần 8 feet. Nhất là ở mỗi bên lưng đen của nó có một xoáy lông màu vàng. “Sự đối xứng này có nghĩa là sức khỏe tốt”, Tráng nói
Khi còn là một cậu bé, Tráng đã cưỡi nhiều trâu. “Sao anh không cưỡi con trâu này nhỉ”, Tráng nói. “Nó hiền đấy. Mười con thì có hai con hung dữ, nhưng chúng tôi ăn thịt những con đó. Một con trâu xấu tính sẽ không to lớn như vậy”.
Con Pháo liếm chiếc lưỡi to màu trắng xanh lên lỗ mũi bên trái, rồi sang bên phải. Nó nhìn tôi. Trông nó có vẻ không ưa tôi.
Tôi không muốn nghĩ đến việc leo lên nó như thế nào. Nhưng một khi lên được lưng nó, tôi cảm thấy thoải mái một cách đáng ngạc nhiên. Khi trượt xuống, tôi đáp xuống một đống cỏ ba lá. “Ở Mỹ”, tôi nói, “cỏ bốn lá nghĩa là may mắn”.
Tráng nói: “Nó không có ý nghĩa gì đối với chúng tôi”.
Đại học Huế, đóng cửa vì những rắc rối gần đây, đã mở cửa trở lại. Giáo sư Bác sĩ Hans-Guenther Krainick, một bác sĩ nhi khoa Tây Đức và là cố vấn cấp cao của Khoa Y, cho biết: “Trước đây, tổng cộng có hơn 2.000 sinh viên”.
Một số sinh viên tham gia lãnh đạo cuộc nổi dậy đã bị bắt, và một số đang lẩn trốn. Một số ít đã tham gia Việt Cộng.
Tuy nhiên, mọi thứ gần như đã trở lại bình thường. Các kỳ thi sắp diễn ra, và sinh viên học bài ở khắp nơi – trong chùa, trên thân các khẩu thần công thiêng liêng ở Hoàng thành. Trên hòn đảo ở hồ Tịnh Tâm, một thanh niên cầm quyển sách sinh học nói với tôi: “Liệu anh có thể học ở nhà với tám đứa em phiền nhiễu không?”.
Các kỳ thi đang diễn ra tại Trường Trung học Đồng Khánh, ngôi trường nổi tiếng nhất dành cho nữ sinh ở Việt Nam. Cảnh sát chống bạo động với súng trường và súng tiểu liên canh gác những tòa nhà trát vữa màu hồng. Tuy nhiên, thuốc nổ dẻo (plastic) của Việt Cộng đã phá sập một lớp học trong đêm. Một thỏi thuốc nổ khác đã được tháo ngòi vào sáng hôm đó. Tuy nhiên, các cô gái tỏ ra bình tĩnh khi suy nghĩ về các câu hỏi triết học: Liệu tâm lý học có cần thử nghiệm hay không? Lý trí có thể hoạt động mà không liên quan đến trực giác? Cảm giác của một người là trở ngại hay trợ giúp cho đời sống tinh thần?
Giáo sư Bửu Kế – nhà thơ, tiểu thuyết gia và quản thủ thư viện của trường đại học – đón tiếp tôi giữa những cuốn sách của ông dưới chiếc quạt trần vĩ đại.
“Ông thường nghe nói rằng chúng tôi là một đất nước non trẻ, rằng chúng tôi phải xây dựng đất nước của mình”, ông nói. “Theo một nghĩa nào đó thì đúng, nhưng theo một nghĩa khác thì có thể gây hiểu lầm. Dân tộc Việt Nam đã tồn tại dọc Biển Đông cách đây 2.000 năm vào thời của Julius Caesar; và thậm chí trước đó, trong khoảng trên dưới 2.000 năm của thời kỳ huyền thoại. Hãy xem lướt cuốn sách này”.
Ông đưa cho tôi một cuốn sách dày, bằng tiếng Pháp, và tôi đếm được tám triều đại Việt Nam, trong đó có triều đại có tới 27 đời Vua. Ngay cả trong suốt 1.000 năm đô hộ của Trung Quốc, người Việt vẫn không ngừng nổi dậy cho đến khi họ đánh đuổi được những kẻ đô hộ, cách đây 1.028 năm.
Giáo sư Bửu Kế nói tiếp: “Không phải lúc nào Việt Nam cũng kiểm soát toàn bộ lãnh thổ mà hiện nay đang bị phân chia thành Bắc và Nam Việt Nam. Chúng tôi đã mở rộng dần dần, từ Bắc vào Nam. Vào khoảng thời gian những người châu Âu đầu tiên đổ bộ vào Bắc Mỹ và bắt đầu chiếm đất của người Mỹ da đỏ, một số tổ tiên người Việt chúng tôi đã tiến xuống phía nam và giành khu vực xung quanh Huế khỏi tay người Chăm, một dân tộc có nguồn gốc Indo-Polynesia”.
Nền văn hóa cũ nuôi dưỡng một quốc gia non trẻ
Đến thế kỷ 18, người Việt vẫn tiếp tục Nam tiến đến nơi có biên giới Nam Việt Nam ngày nay. “Sau đó”, Giáo sư Bửu Kế nói, “chúng tôi đã trở thành nạn nhân của người Pháp”.
Ông ngồi im lặng một lúc. Rồi ông nói: “Nam Việt Nam chắc chắn là một đất nước non trẻ, được tạo ra sau khi người Pháp rời đi cách đây 13 năm. Nhưng nền văn minh Việt Nam không hề trẻ. Ngược lại, có lẽ chúng tôi đã dừng lại ở quá khứ quá lâu”.
Tôi nhìn thấy những lời nhắc nhở về khát vọng độc lập của người Việt trong chính những cái tên đường phố: từ Trần Hưng Đạo, để tưởng nhớ vị tướng quân đã đánh đuổi quân xâm lược Nguyên – Mông vào thế kỷ XIII, đến Phan Bội Châu, để vinh danh một học giả đã qua đời ở Huế vào năm 1940 sau khi đấu tranh chống Pháp trong năm mươi năm.
Điều gì sẽ xảy ra với Việt Nam bây giờ? Vết thương có bao giờ lành lại không?
Tôi hỏi cha của cô gái đã tự thiêu. Ông rót cho tôi một tách trà khác và lặng lẽ nhìn quanh cửa hàng của ông – một hiệu sửa chữa xe máy. Ông nói: “Lúc đầu, vợ chồng tôi rất buồn. Nhưng con gái chúng tôi chết vì một chính nghĩa, vì vậy chúng tôi cũng rất tự hào. Bây giờ chúng tôi đang quên, không phải quên con, mà là quên đi nỗi buồn”.
Trong cuộc họp hàng tuần của Hội Khổng học ở Kinh thành, các thành viên đã mưu định một cuộc phục hưng đạo đức. Trước tiên, cần khôi phục mạnh mẽ việc dạy và học chữ Hán, để năm tác phẩm kinh điển của Trung Quốc – những cuốn sách do Khổng Tử và những môn đệ của ông biên soạn hoặc hiệu đính – có thể bù đắp ảnh hưởng của những cuốn sách mới không có đạo đức trong đó. Đối với những người không thể học chữ Hán, sẽ có các bản dịch.
Khổng Tử đã nêu ra giải pháp gì cho những rắc rối hiện nay?
Chủ tịch Hội, ông quan Phan Ngọc Hoàn, trả lời rằng nhiệm vụ hàng đầu của con người vẫn là hoàn thiện bản thân về mặt đạo đức. “Khổng Tử nói phải tu thân tốt rồi mới tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
…
Thời gian của tôi ở Huế đã hết, và tôi vẫn chưa đến thăm những lăng tẩm quan trọng nhất của Hoàng gia. Sau đó, tôi nhận được tin từ tỉnh trưởng. Ông vẫn không thể dành đủ quân để cho phép một chuyến tham quan lăng mộ của Hoàng đế Gia Long, cách sáu dặm rưỡi, hoặc năm dặm đến lăng Vua Minh Mạng, con của Gia Long. Nhưng 12 lính với một súng máy và hai súng phóng lựu sẽ đủ để tôi đi thăm lăng Vua Tự Đức.
Lăng Tự Đức nằm trong một thị trấn riêng có tường bao quanh, với nhiều loại cây và rộng gấp 5 lần Tử Cấm Thành, nơi vị Hoàng đế đã sống phần lớn cuộc đời của mình. Phía sau bức tường lớn mọc lên một ngôi điện, các tòa nhà dành cho những người hầu cận, các bức tượng và bia đá khắc chữ. Một ngôi mộ đơn sơ với những cây thông bao quanh được một bức tường khác bao bọc. Hoàng đế đã tự tay thiết kế tất cả. Ông thường ngồi đây, trong một ngôi đình thoáng mát bên hồ sen, viết những bài thơ về tính vô thường của vạn vật.
Tự Đức là một người mơ mộng. Trong triều đại của ông, người Pháp đã đến và đánh chiếm đất nước. Lúc nước sôi lửa bỏng, Tự Đức đã cử quan Bùi Viện đến Washington để nhờ Tổng thống Ulysses S. Grant giúp đỡ. Không ích gì. Người Pháp buộc những Hoàng đế kế vị Tự Đức phải nổi dậy và bị lưu đày, hoặc trị vì như một bù nhìn ở miền Trung Việt Nam.
Một con chim màu xám bay lên từ cây hoa đại. Những con chuồn chuồn bay lượn trên ao sen như những chiếc trực thăng tí hon – có con màu xanh, có con màu đỏ, màu vàng – và tôi nghĩ đến bạn Thiện của tôi.
“Việt Nam”, ông nói, “giống như nhiều quốc gia khác, là một giấc mơ, và để biến giấc mơ thành hiện thực, người ta cần có những người tin vào những giấc mơ. Người Mỹ, những người có nền khoa học và trí tuệ mà tôi kính trọng, nói với tôi rằng Mỹ cũng là một giấc mơ, một giấc mơ đẹp như một đóa hoa xuân…”.
Và tôi đã cầu nguyện rằng cả hai giấc mơ có thể trường tồn.■ (Hết)
Peter White & Winfield Parks
Ngô Bắc (dịch)
Chú thích:
[1] Đơn vị đo chiều dài, bằng 0,3048 mét.