Công cuộc Đổi Mới của Việt Nam

Đổi Mới là một chương trình cải cách toàn diện bao gồm kinh tế và nhiều khía cạnh khác của đời sống xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng vào thập niên 1980. Chính sách Đổi mới được chính thức thực hiện từ Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI, năm 1986. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều tổng kết đánh giá toàn diện công cuộc Đổi mới trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và đề ra các chính sách phù hợp với tình hình mới của đất njước. Gần đây, Tạp chí Phương đông rất bất ngờ nhận được bài viết của một học sinh lớp 11 đánh giá, nhận xét về công cuộc Đổi Mới của Đảng ta trên các vấn đề về chính trị, kinh tế, xã hội của nước ta. Bài viết khá sâu sắc với góc nhìn của một học sinh trung học phổ thông với vấn đề trọng đại của đất nước, xin giới thiệu với bạn đọc.

Trong thế giới ngày nay, chúng ta đang chứng kiến ​​các quốc gia đang phát triển trỗi dậy và phát triển với tốc độ phi thường. Hãy nhìn vào Việt Nam như một điển hình của sự thành công trong phát triển. Sau khi đất nước thống nhất, nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn và gian khổ. Những khó khăn còn đến từ mặt trận chính trị và ngoại giao. Một mặt, thời điểm đó Việt Nam có quan hệ căng thẳng với các nước láng giềng như Trung Quốc và Campuchia; và mặt còn lại là bị các nước phương Tây bao vây cấm vận. Tuy nhiên, những thách thức này đã dường như được khắc phục bởi Đổi Mới. Đổi mới đã mang lại những thay đổi sâu sắc cho Việt Nam bằng việc chuyển đổi nền kinh tế từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới cùng với việc điều chỉnh chính sách đối ngoại đã đưa Việt Nam từ bờ vực sụp đổ đến nay đang trên đà phát triển kinh tế thịnh vượng và có vị thế quan trọng ở chính trường quốc tế. Vậy Đổi Mới là gì? Hơn nữa, tại sao Đổi mới lại có thể kéo Việt Nam từ một nước có xuất phát điểm thấp thành một nước đang phát triển? Năm 1986, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đã được tổ chức với hơn 1000 đại biểu đã giới thiệu về một khái niệm mang tên Đổi mới. Về bản chất, mục đích là đưa Việt Nam từ một nền kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này cũng cho phép Việt Nam mở cửa với thế giới. Đổi Mới có thể được coi là một sự thay đổi mang tính cách mạng làm thay đổi hoàn toàn nền kinh tế chính trị và xã hội Việt Nam mãi mãi.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986). Ảnh: Tư liệu.

Đổi mới và chính trị Việt Nam

Trên phương diện chính trị, việc thực hiện Đổi mới đã thành công trong việc mở cửa Việt Nam đối với thế giới bên ngoài, đồng thời đưa Việt Nam lên một vị thế chưa từng có trong tiền lệ ở quan hệ quốc tế. Trước khi Đổi Mới, Việt Nam là một đất nước biệt lập với thế giới bên ngoài, tương tự như Bắc Triều Tiên bây giờ. Tuy nhiên, sau cuộc cải cách mọi thứ đã thay đổi.

Đổi Mới đã thành công trong việc giúp Việc Nam nhận được sự công nhận của thế giới. Tất cả bắt đầu từ việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Điều này có ý nghĩa quan trọng. Trung Quốc đã là một siêu cường quốc và là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. Hơn nữa, việc thiết lập mối quan hệ với Hoa Kỳ cho thấy rõ hơn rằng Đổi Mới đã có những ảnh hưởng tích cực đến Việt Nam. Tổng thống Bill Clinton quyết định dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam, gián tiếp cho phép đất nước hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế toàn cầu. Động thái này đã giúp ích cho nền kinh tế và tạo được uy tín cho Việt Nam trước bạn bè thế giới. Có quan hệ ngoại giao với các cường quốc như Trung Quốc và Mỹ sẽ mở ra cơ hội cho Việt Nam gia nhập những tổ chức đa phương khác. Minh chứng rõ ràng nhất là ở việc Việt Nam gia nhập các tổ chức khu vực như ASEAN hoặc trở thành thành viên của Liên hợp quốc. Gần đây nhất, Việt Nam đã được bầu giữ chức Chủ tịch luân phiên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Vai trò của Đổi Mới là rất rõ ràng cho việc góp phần tạo nên điều này. Đây sẽ là cơ hội để Việt Nam tham gia vào các vấn đề toàn cầu như gìn giữ hòa bình chung và thể hiện mình trước những bạn bè quốc tế. Đổi Mới là một thành công to lớn đối với Việt Nam nói chung và chính sách đối ngoại của Việt Nam nói riêng. Như vậy, chính sách đối ngoại của Việt Nam hoạt động theo nguyên tắc thực tế và toàn cầu hóa đã chứng minh rằng đất nước đang đi đúng hướng để thành công.

Tuy còn nhiều vướng mắc và uẩn khúc trong thực tiễn, nhưng về mặt tổng thể, Đổi Mới cũng đã mang lại những thay đổi tích cực về đường lối, chủ trương và chính sách của Đảng đối với cách vận hành đất nước. Việt Nam đổi mới bộ máy nhà nước từ cơ chế hành chính, tập trung quan liêu sang bộ máy quản lý xã hội bằng pháp luật. Các nhà lãnh đạo xác định được đúng trọng tâm, trọng điểm và bước đi trong quá trình hướng tới một nhà nước pháp quyền, dân chủ. Đảng và Nhà nước Việt Nam đang gây dựng lên một xã hội chủ nghĩa “của dân, do dân, vì dân”. Minh chứng rõ ràng nhất là người dân có quyền đi bầu cử với nguyên tắc phổ thông và bình đẳng. Đối với cơ quan tư pháp, về mặt ý tưởng, Việt Nam thay đổi theo hướng xét xử đúng người, đúng tội trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc tố tụng. Tuy vậy, trên thực tế, vẫn còn rất nhiều các vụ oan sai và nguyên tắc tố tụng bị xâm phạm dẫn đến những sai phạm trong việc xét xử. Tự do ngôn luận cũng là một đổi mới tích cực mà Đảng đã đề ra để hướng tới một nhà nước pháp quyền. Báo chí và các cơ quan truyền thông có quyền chê bai, đề cập mặt phải, mặt trái trong xã hội cũng như cách điều hành của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Thế nhưng, đây cũng là một cơ sở mà các thế lực thù địch, phản động, bất mãn chính trị thường lợi dụng để chống phá Đảng, nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Còn về phần nhân quyền, tuy đây là một vấn đề nhạy cảm mà Việt Nam còn nhận được nhiều sự phản đối từ bạn bè quốc tế, nhưng Việt Nam đã và đang cam kết thực hiện đúng theo những nguyên tắc chung của Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền,đạt được nhiều thành tự về bảo vệ quyền con người ở Việt Nam, được bạn bè, các nước ghi nhận, minh chứng rõ ràng là Việt Nam đã 2 lần được bầu vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc.

Bất chấp tất cả những tích cực mà Đổi Mới mang lại cho Việt Nam về mặt chính trị, sự thay đổi nhanh chóng của các chính sách có thể dẫn đến những bất ổn, xung đột của các hệ tư tưởng. Đổi Mới đã đóng một vai trò thiết yếu trong việc cho phép các trao đổi giáo dục được diễn ra. Các sinh viên sẽ được chọn và gửi đi sang nước ngoài du học. Tuy nhiên, du học đã tạo ra nhiều thách thức chứ không chỉ mang đến cơ hội. Nhiều sinh viên ra nước ngoài và quay trở lại với quá nhiều tư tưởng chính trị phương Tây. Khi đã bị “ô nhiễm” nền dân chủ và văn hóa chính trị phương Tây, họ coi thường văn hóa và truyền thống của quê hương mình. Một vấn đề khác gặp phải là phần lớn những sinh viên trở về từ các chương trình du học đều không được trọng dụng bởi Chính phủ. Điều này dẫn đến tình trạng thiếu việc làm và lãng phí nhân tài, và cả hai điều này đều không tốt cho nền kinh tế. Một trong những nguyên nhân gây ra điều này là đến từ cơ sở vật chất, thông tin Việt Nam còn sơ sài, không thể đáp ứng được giống như ở nước ngoài. Thay vì tham gia vào khu vực công, sinh viên trở về có nhiều khả năng xem xét gia nhập khu vực tư nhân. Khi đất nước đang tìm cách chào đón nhiều nhà đầu tư nước ngoài hơn, các cán bộ được đào tạo ở nước ngoài sẽ cực kỳ có ích. Các kỹ năng của họ giúp tăng khả năng thu hút đầu từ vào Việt Nam. Mặc dù chính sách Mở cửa của Việt Nam đã mở rộng cánh cửa cho sinh viên đi du học nước ngoài, tiếp xúc với các nền giáo dục văn minh, nhưng vẫn có nhiều nghịch lý cần phải giải quyết. Việt Nam cũng đang ở một vị trí khó trên bản đồ chính trường quốc tế khi phải điều phối tốt hơn mối quan hệ với các nước lớn. Việt Nam cần Trung Quốc để phát triển kinh tế, song cũng cần quan hệ tốt với Mỹ để có lợi cho phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh và hoà bình ở khu vực Đông Nam Á. Như vậy, Chính phủ cần có một chính sách đối ngoại khôn khéo để có thể dung hoà được các nước liên quan.

Nhìn chung, Đổi Mới đã thành công trên mặt trận ngoại giao và chính trị trong việc hình thành các mối quan hệ song phương, đa phương cũng như thay đổi tư duy của Đảng và nhà nước trong việc hướng tới một nhà nước pháp quyền, tuy còn rất nhiều vướng mắc và uẩn khúc trong thực tiễn. Những thách thức nảy sinh từ trao đổi giáo dục cũng cần được phải được giải quyết. Một chính sách hiệu quả, đảm bảo sử dụng tốt những sinh viên này, cho phép họ kết nối với các viện và trường đại học nước ngoài để trao đổi thông tin cũng là một cách để có thể tận dụng nguồn nhân tài đó. Chính người trẻ lại có những khát vọng cháy bỏng để được thể hiện mình, có những cái nhìn mới mẻ về những cách làm để có thể phát triển Việt Nam một cách tốt đẹp hơn. Chính phủ nên làm việc và lắng nghe những sinh viên quay trở về để tận dụng tốt được các kỹ năng của họ cho sự phát triển của quốc gia.

Đổi mới và nền kinh tế Việt Nam

Nhìn vào những thành công và thất bại mà Đổi Mới mang lại cho Việt Nam, thì nền kinh tế được cho là hưởng lợi nhiều nhất và ít bị ảnh hưởng tiêu cực nhất. Việc cải cách chính sách đã tạo nên thuận lợi cho việc chuyển nền kinh tế từ kế bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa năng động và có sức hút hơn. Đồng thời, chủ trương Mở Cửa cũng đã mở ra cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam hội nhập với kinh tế quốc tế.

Sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, kinh tế, xã hội Việt Nam có sự thay đổi kỳ diệu. Ảnh minh hoạ

Việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế trong nước. Bước vào thời hậu chiến chưa bao giờ là điều dễ dàng đối với nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào với những khoản nợ và áp lực xây dựng lại đất nước. Trước khi Đổi Mới, Việt Nam là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới. Theo Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ nghèo đói là xấp xỉ 70%. Trong khi đó, GDP trên đầu người của Việt Nam nằm trong khoảng 200 USD đến 300 USD một năm. Tuy nhiên, khi Đổi Mới được thực hiện, mọi thứ đã thay đổi nhanh chóng, GDP bình quân đầu người đã đạt hơn 2.700 đô la Mỹ vào năm 2019. Ngoài ra, hơn một nửa dân số cả nước đã thoát nghèo. Covid-19 đã tác động mạnh mẽ vào nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam cũng không ngoại lệ bởi sự hội nhập sâu rộng. Tuy nhiên, vào năm 2020, GDP của Việt Nam đã tăng 2,9% và dự kiến ​​sẽ tăng trưởng 6,6% vào năm 2021 do sự phục hồi mạnh mẽ trong nước. Các dữ liệu cho thấy sự linh hoạt và khả năng phục hồi đáng kinh ngạc của nền kinh tế. Kể từ khi cải cách, Chính phủ đã nhường phần lớn nền kinh tế cho khu vực tư nhân, chỉ đóng vai giám sát và điều tiết nền kinh tế. Chính phủ cũng bắt đầu quá trình cổ phần hoá. Kinh tế Việt Nam đã trở thành nền kinh tế đa thành phần với nhiều đóng góp từ các nhóm khác nhau. Điều này cực kỳ quan trọng vì kinh tế đa thành phần biến xã hội trở nên đoàn kết hơn. Chính phủ có thể tận dụng được tất cả các nhân lực trong xã hội, nhằm tránh lãng phí. Sở hữu tư nhân cũng đồng nghĩa với việc nền kinh tế sẽ có năng suất cao hơn, đáp ứng nhanh hơn cung và cầu và đa dạng hoá các loại hàng hoá và dịch vụ; do đó khuyến khích cạnh tranh thị trường và tối đa hoá lợi nhuận, đóng góp vào tăng trưởng chung của đất nước. Báo cáo của Diễn đàn Cạnh tranh Toàn cầu cho thấy trong suốt 11 năm từ 2006 đến 2017, Việt Nam đã tăng 22 bậc từ vị trí 77 lên vị trí thứ 55 về mức độ cạnh tranh kinh tế. Vì nền kinh tế trong nước ngày một cạnh tranh hơn, Chính phủ vẫn tiếp tục điều tiết để giảm thiểu tội phạm kinh tế. Chính phủ không những chỉ bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng mà còn đảm bảo sự công bằng cho các doanh nghiệp. Do đó, việc cải cách Đổi Mới đã góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế trong nước.

Ở cấp độ quốc gia, Đổi Mới đã tạo ra các chính sách mới trong luật đầu tư, luật lao động, cải cách ruộng đất, luật tài chính… và điều này gián tiếp thu hút được đầu tư nước ngoài, tạo cơ hội cho các tập đoàn xuyên quốc gia, phải kể đến như là Samsung, Canon hay LG. Chính sách mới được đưa ra đã làm thay đổi đáng kể tư tưởng của các nhà lãnh đạo Việt Nam. Chưa bao giờ, an ninh quốc gia và phát triển kinh tế lại phụ thuộc nhiều vào nhau như vậy. Đặc biệt, những khoản đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã tạo ra rất nhiều cơ hội công ăn việc làm cho người dân. Xã hội ổn định với thu nhập sẽ có lợi cho Chính phủ, giảm thiểu về tệ nạn xã hội, cải thiện dân trí xã hội và đảm bảo an ninh quốc gia. Sự cải cách này không chỉ thu hút các nhà đầu tư quốc tế mà còn tạo ra những người Việt Nam có tên tuổi ở nước ngoài, như Phạm Nhật Vượng (Vingroup), Hồ Hùng Anh (Techcombank, Masan, Onemount Group), Nguyễn Cảnh Sơn (Eurowindow)… Đây là những doanh nhân thành đạt đã tận dụng được thời cơ Việt Nam mở cửa để trở về và cống hiến cho nền kinh tế nước nhà. Đổi Mới cũng đã cho phép các tập đoàn trong nước giờ vươn ra quốc tế làm ăn mà không cần phải thông qua chính phủ. Lấy ví dụ như việc Vinfast toàn cầu hoá gần đây là một minh chứng rõ ràng trong việc vươn ra biển lớn của các doanh nghiệp nội. Điều này sẽ rất có lợi cho họ vì họ được tiếp xúc và cọ sát nhiều hơn với các doanh nghiệp nước ngoài. Việc thay đổi cơ chế chính sách đối ngoại của Việt Nam đã chứng tỏ được sự thành công trong việc thu hút các khoản đầu tư có lợi cho kinh tế xã hội.

Đổi Mới tạo nên những tỉ phú Việt Nam trong danh sách những người giàu nhất châu Á. (Ảnh: Forbes)

Tương tự như ở phương diện ngoại giao, Đổi Mới đã mang lại cho Việt Nam các mối quan hệ kinh tế song phương cũng như đa phương. Điển hình như việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc đã mở ra cơ hội thương mại cho cả hai nước. Từ năm 2004 đến năm 2011, thương mại song phương tăng từ 7,2 tỷ USD đến 25 tỷ USD. Và đến năm 2021, Việt Nam đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ 6 của Trung Quốc; trong khi Trung Quốc vẫn là đối tác lớn nhất của Việt Nam. Năm 2007 đánh dấu năm đầu tiên Việt Nam gia nhập WTO. Kết quả là Việt Nam đã tiếp tục và ký thêm nhiều hiệp định thương mại với các thị trường lớn hàng đầu khác nhau, đáng chú ý nhất là CPTPP và EVFTA. Các hiệp định này sẽ giảm bớt các rào cản thương mại, chẳng hạn như thuế quan để khuyến khích trao đổi hàng hóa giữa các nước thành viên. Tính riêng trong CPTPP, 11 nước thành viên đã chiếm tới 13% nền kinh tế toàn cầu, tổng GDP là 10 nghìn tỷ USD. Với EVFTA, EU và Việt Nam đã đồng ý cắt giảm 99% thuế quan trao đổi giữa hai bên. EVFTA cũng giúp Việt Nam có đặc quyền tiếp cận thị trường thịnh vượng lên tới 500 triệu dân. Như vậy, Đổi Mới đã đóng một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hội nhập với kinh tế toàn cầu của Việt Nam.

Đổi Mới đã mang lại cho nền kinh tế không chỉ những điều tích cực mà cả một số thách thức. Điều đầu tiên là việc các doanh nghiệp lợi dụng người tiêu dùng để tối đa hoá lợi nhuận. Covid-19 đã tạo ra những cơ hội sinh lời cho doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường khẩu trang. Các doanh nghiệp lợi dùng người tiêu dùng bằng cách tăng giá từ 65.000 đồng lên 120.000 đồng cho một hộp khẩu trang. Điều này đặt ra câu hỏi về tính công bằng trong thị trường khẩu trang cho người tiêu dùng. Các hộ gia đình có thu nhập thấp xứng đáng được mua khẩu trang với giá cả hợp lý. Để giải quyết vấn đề công bằng giữa các hộ gia đình có thu nhập thấp và cao, chính phủ cần can thiệp bằng cách áp đặt những chính sách kinh tế khác nhau. Hơn nữa, Đổi Mới còn thách thức nghiêm trọng tính bền vững của Việt Nam trong dài hạn do nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng với nguồn tài nguyên khan hiếm được sử dụng để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng, Việt Nam cần phải bắt đầu suy nghĩ về phát triển lâu dài, đặc biệt là việc xử lý khí thải ra môi trường. Ngoài ra, việc khai thác tài nguyên thiên nhiên không bền vững cũng là một mối đe dọa đối với sự phát triển lâu dài của Việt Nam, như năm 2010, Việt Nam đã mất 7781 ha rừng và đất, gián tiếp dẫn đến hủy diệt môi trường sống của các loài động vật hoang dã. Một điều hạn chế nữa đó là nguồn nhân lực của Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào FDI. Một khi các nhà đầu từ nước ngoài rút ra khỏi Việt Nam, nguồn nhân lực đó sẽ bị lãng phí và nhất là khi họ không chuyển giao công nghệ cho Việt Nam, vấn đề thất nghiệp sẽ rất nghiêm trọng.

Tóm lại, Đổi Mới đã góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam đang ở giai đoạn cần phải tính đến tương lai. Chính phủ cần bắt đầu đưa ra một kế hoạch dài hạn để phát triển bền vững. Việc giảm thiểu tác động môi trường theo những cam kết của Hội nghị biến đổi khí hậu toàn cầu là đúng, thế nhưng, vẫn còn rất nhiều việc phải làm để cùng cố vấn đề này.

Đổi mới với xã hội Việt Nam

Với việc Đổi Mới làm thay đổi mãi mãi nền kinh tế chính trị của Việt Nam, sự phát triển trong xã hội là điều tất yếu. Xã hội Việt Nam thu hoạch được nhiều lợi phẩm từ Đổi Mới. Tuy nhiên, sự thay đổi này cũng không đồng nghĩa với việc xã hội Việt Nam đang hướng tới một xã hội với lý tưởng “Utopia”.

Nói chung, việc đổi mới các chính sách đã đóng góp tích cực cho xã hội Việt Nam trong việc nâng cao mức sống. Những thành công mà Đổi Mới mang lại cho nền kinh tế đã dẫn tới sự gia tăng nguồn cung ngân sách quốc gia. Điều này được thể hiện qua việc cung cấp các dịch vụ cơ bản ở Việt Nam khi 99% dân số được sử dụng điện theo thống kê từ Ngân Hàng Thế Giới. Ngoài ra, UNICEF báo cáo rằng trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2017, tỷ lệ dân số được tiếp cận với nguồn nước sạch và vệ sinh cơ bản đã tăng từ 65% lên 95% và từ 52% lên 84%. Tuổi thọ của người Việt và chỉ số bao phủ y tế đều là cao nhất so với các nước trong khu vực với cùng mức thu nhập, 76 tuổi và 73/100. Đây là một minh chứng nổi bật nữa về kết quả thuận lợi mà Đổi Mới đã mang lại cho Việt Nam nói chung và xã hội nói riêng.

Đổi Mới ảnh hưởng đến từng cá nhân đơn lẻ trong xã hội. Nhiều công ăn việc làm trong xã hội không chỉ mang lại thu nhập cho người dân mà còn trang bị cho họ những kỹ năng và kiến ​​thức, chuẩn bị cho một tương lai bền vững và đó cũng là mục tiêu Thiên niên kỷ mà Việt Nam đã cam kết với LHQ. Như đã nêu ở trên, kỹ năng và kiến ​​thức cho người dân cũng có thể đến từ việc trao đổi với các nền văn hóa khác nhau do chính sách Mở cửa của Việt Nam. Điều này cũng đồng nghĩa với việc cho phép các nền văn hóa giao thoa với nhau. Người Việt Nam truyền bá văn hoá truyền thống của mình ra thế giới và người Việt Nam cũng tiếp xúc được với những nền văn minh khác. Cùng với giáo dục, trình độ dân trí của xã hội ngày càng được nâng cao; do đó, giảm các tệ nạn xã hội và củng cố các mối liên kết giữa các cá nhân trong xã hội. Trong thế giới hiện nay, sự thống nhất trong xã hội là nền tảng vững chắc cho những thành công của một quốc gia. Đó là lý do tại sao Việt Nam đối phó với Covid-19 tốt hơn rất nhiều so với các quốc gia phương Tây khác. Việt Nam không bỏ quên ai, trong Covid, người dân chia ngọt sẻ bùi với nhau. Không ai có thể tưởng tượng rằng Đổi Mới lại tác động đến những điều nhỏ nhặt nhất như từng cá nhân đơn lẻ trong xã hội, tuy nhiên, tác động ấy thật sự có ý nghĩa sâu sắc.

Cho dù có những kể quả tích cực từ Đổi Mới về mặt xã hội, vẫn còn một trở ngại lớn, đó là sự chênh lệch thu nhập ở Việt Nam. Hệ số gini đã tăng từ 0,34 lên 0,42 trong khoảng thời gian 10 năm từ 2008 đến 2018. Khi người giàu ngày càng giàu và người nghèo ngày càng nghèo đi, điều này tạo ra vấn đề bất bình đẳng ở Việt Nam. Hãy xem xét khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Mặc dù Đổi Mới đã hoàn thành xuất sắc việc cung cấp nhiều hơn, nhưng cuối cùng, người dùng vẫn phải trả tiền cho nó. Ngoài ra, việc khuyến khích các tổ chức tư nhân và quốc tế cung cấp các dịch vụ cơ bản đã khép bớt cánh cửa đối với người nghèo vì các chủ thể này thường hoạt động vì lợi nhuận và chủ yếu cung cấp ở các khu vực thành thị. Hậu quả là những người nghèo sống ở các vùng nông thôn không được tiếp cận. Không chỉ với các dịch vụ cơ bản, các hộ gia đình thu nhập thấp sống ở vùng sâu, vùng xa nhận được chất lượng giáo dục thấp, y tế thấp.

Nhìn toàn diện về xã hội Việt Nam, Đổi Mới đã thực sự mang lại nhiều thay đổi như nâng cao mức sống, dân trí cũng như thống nhất xã hội. Tuy nhiên những vấn đề trỗi dậy đang xoay quanh những người nghèo. Mặc dù Việt Nam đang đi đúng hướng với hệ thống thuế thu nhập lũy tiến khi đánh thuế người giàu cao hơn người nghèo, để hoàn toàn chu cấp cho những người nghèo bằng phúc lợi xã hội thì đất nước vẫn chưa làm tốt và có thể xem Úc như một hình mẫu để học hỏi.

Khi có một cái nhìn tổng thể về kinh tế, chính trị và xã hội của Việt Nam, chúng ta có thể rõ ràng đưa ra kết luận rằng Đổi Mới đã thay đổi tích cực Việt Nam, đưa Việt Nam thoát khỏi sự cô lập, hội nhập nhanh với quốc tế. Đổi Mới tăng cường được sức mạnh quốc gia và có vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế và khu vực. Đổi Mới khơi dậy được khát vọng của dân tộc, huy động nguồn lực và nhân lực quốc gia. Đổi Mới nâng cao được dân trí, sự gắn kết xã hội và củng cố được đoàn kết các dân tộc. Đặc biệt người dân càng tin vào chế độ và Đảng Cộng Sản Việt Nam. Tuy nhiên, Đảng và nhà nước Việt Nam cũng cần nhìn nhận một cách thực tế những tồn tại đang kìm hãm sự phát triển và nhìn thấy những nguy cơ và thách thức của đất nước trong bối cảnh tình hình thế giới biến đổi không ngừng do tác động của các nước lớn và đại dịch Covid-19.

Đổi Mới sẽ là một quá trình chuyển đổi tốn nhiều thời gian, như chúng ta đã thấy, các thế hệ tiên phong đã để lại cho thế hệ bây giờ và kế tiếp một nền tảng Việt Nam vững chắc, đủ để tận dụng và thay đổi Việt Nam thành một đất nước tốt đẹp hơn. Điều này đòi hỏi sự tin tưởng to lớn đến từ người dân đối với việc điều hành của chính phủ.■

Nguyễn Nhật Minh

(Theo Tạp chí Phương Đông)

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN