Trải qua hơn 100 năm hình thành và phát triển với biết bao thăng trầm, biến động, báo chí Việt Nam đã và đang giữ một vai trò quan thiết, chi phối mọi mặt đời sống, xã hội, trở thành một trong những công cụ hàng đầu góp phần truyền bá thông tin, cung cấp tri thức, định hướng những giá trị tinh thần tốt đẹp và nâng cao dân cao dân trí quốc gia. Ngay từ thời kì đầu, những tờ báo ra đời dưới chế độ thuộc địa đã đi tiên phong trong việc mở mang kiến văn, “khai dân trí, chấn dân khí”, hướng dẫn người Việt tiếp cận những giá trị tiến bộ từ phương Tây. Sang đến thời kì 1945 – 1975, sự nở rộ và những thành tựu rực rỡ của nền Báo chí Cách mạng đã đánh dấu những cột mốc lớn trong lịch sử báo chí Việt Nam, khi mỗi nhà báo, phóng viên đều là một “người thư ký trung thành” của thời đại, luôn luôn song hành cùng sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Tới tận ngày hôm nay, trong thời đại hội nhập, đổi mới, nền báo chí nước nhà một mặt đã có những bước chuyển mình để phù hợp với bối cảnh hiện đại, mặt khác vẫn khẳng định được vị thế quan trọng của mình trong việc truyền bá tri thức, văn hóa, định hướng những mục tiêu phát triển bền vững cho xã hội, đồng thời nhanh chóng nắm bắt và cung cấp đầy đủ những thông tin khách quan, chân thực, chính xác nhất tới mọi người dân Việt Nam. Nhân ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam, cùng điểm lại những mốc phát triển của toàn bộ nền báo chí Việt Nam nói chung và Báo chí Cách mạng nói riêng để thấy được toàn bộ tiến trình lịch sử thăng trầm mà vẻ vang của sự nghiệp báo chí nước nhà; từ đó có được cái nhìn sâu sắc hơn về sức mạnh, tầm ảnh hưởng của báo chí đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, thêm thấu hiểu và trân trọng những lao động nhọc nhằn mà vinh quang của người làm báo xưa và nay.
Ở thời kì đầu, khi thực dân Pháp nổ tiếng súng mở màn cuộc xâm lược Việt Nam tại bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng (1858), họ đã hoạch định một chiến lược đô hộ hết sức quy mô và bài bản mà trong đó vấn đề ngôn ngữ, văn hóa và báo chí đã được đặt ra như một ưu tiên hàng đầu, vì mục tiêu “đồng hóa” người Việt, mang văn minh phương Tây truyền bá sâu rộng hơn nữa vào lãnh thổ nước ta. Báo chí Việt Nam ra đời và phát triển trước tiên ở Nam Kỳ, bởi lẽ, đây là nơi hội tụ 3 yếu tố căn bản để xuất hiện báo chí, bao gồm: văn tự (chữ quốc ngữ), sự phát triển của các kỹ thuật in ấn hiện đại và sự xuất hiện của các đối tượng độc giả. Trước hết, cần thấy rằng, khi công cuộc khai thác thuộc địa được thực hiện tại Nam Kỳ, Pháp đã ra sức truyền bá chữ quốc ngữ – một loại chữ có tính phổ thông cao hơn chữ Hán, đồng thời cho xuất bản nhiều tờ báo bằng loại văn tự này để dễ dàng phổ biến văn hóa phương Tây, đặc biệt là đạo Công giáo ở Việt Nam. Do đó, hầu hết những người viết văn, làm báo đầu tiên ở Việt Nam đều là những người Công giáo. Có thể kể đến những cái tên như: Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ký, Nguyễn Trọng Quản… Bên cạnh đó, các phương tiện kỹ thuật in ấn hiện đại, nhà in, thợ in giỏi… đều được Pháp đưa sang Việt Nam, phục vụ đắc lực cho quá trình xuất bản báo chí tại Nam Kỳ lúc bấy giờ. Đồng thời, với đặc tính văn hóa cởi mở, dễ tiếp thu cái mới của con người Nam Bộ, một cộng đồng độc giả dễ dàng được hình thành, giúp đời sống báo chí ngày càng mở rộng và phát triển hơn.
1. Thời kì 1865 – 1945 đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của báo chí Nam Kỳ với sự nở rộ của nhiều tờ báo viết bằng chữ Pháp, chữ quốc ngữ, chữ Hán kết hợp chữ quốc ngữ. Báo chí được xuất bản đa dạng từ hình thức tới nội dung. Bên cạnh các tờ báo chuyên về mảng thời sự, chính trị, công vụ như Gia Định Báo(1865), cũng tồn tại những tờ báo với phong cách nội dung hướng tới các đối tượng độc giả riêng như: Nông Cổ Mín Đàm chuyên về kinh tế; Thông Loại Khóa Trình chuyên về văn hóa, Phụ nữ Tân Văn – báo phụ nữ, Nam Kỳ địa phận báo về công giáo… Đến trước thế chiến I, báo chí Nam Kỳ chiếm ¾ báo chí cả nước. Trong đó, nổi bật là các tờ như: Gia Định Báo (1865- đầu thế kỷ XX) – tờ báo quốc ngữ đầu tiên của nước ta, được giao cho Trương Vĩnh Ký (“ông tổ của nghề báo Việt Nam”) phụ trách vào năm 1869.
Ở Bắc Kỳ, do một vài yếu tố khách quan, sự hình thành và phát triển của báo chí diễn ra chậm hơn. Đại Nam Đồng Văn Nhật Báo là tờ báo đầu tiên được xuất bản bằng chữ Hán vào năm 1892. Bên cạnh đó, một số tờ báo tiếng Pháp như Tương Lai Bắc Kỳ, Tin Hải Phòng (Courier Hai Phong)… cũng lần lượt ra đời. Tờ Đại Việt Tân Báo là tờ báo quốc ngữ đầu tiên xuất bản ở Bắc Kỳ năm 1905, rồi tờ Đăng Cổ Tùng Báo là diễn đàn kêu gọi canh tân của biên tập viên trẻ Nguyễn Văn Vĩnh và cơ quan ngôn luận của hội “Đông Kinh Nghĩa Thục” (03-11/1907) với nhiều bài báo mang tính chính trị và chống Pháp. Rồi tiếp theo là tờ Trung Bắc Tân Văn, Đông Dương Tạp Chí (1913 – 1916), Nam Phong Tạp Chí (1917 – 1934). Đặc biệt, tờ Nam Phong Tạp Chí do Phạm Quỳnh sáng lập đã đóng vai trò quan trọng như một “bách khoa thư” sống động; cung cấp, phân tích và khái quát hóa các tư tưởng học thuật Đông Tây, kim cổ, nhằm đem tới cho nhiều đối tượng bạn đọc lúc bấy giờ những tri thức từ căn bản tới chuyên sâu trong các lĩnh vực văn hóa đa dạng, góp phần nâng cao nhận thức, ý thức của người Việt về dân tộc mình và thế giới chung quanh. Nhiều bài viết trong tạp chí cho đến nay vẫn giữ được nguyên vẹn giá trị “khai dân trí” của nó, do đó thường được nhiều trí thức tìm tới để soi chiếu các vấn đề của xã hội đương đại. Dù xuất hiện muộn hơn so với niềm Nam song vùng đất Bắc Kỳ với các ưu thế về bề dày và chiều sâu văn hóa, lịch sử, đội ngũ trí thức là những nhà báo tiềm năng cũng như nhu cầu sử dụng báo chí làm công cụ đấu tranh chính trị, văn hóa, xã hội, hứa hẹn sẽ là nơi chứng kiến sự nở rộ của báo chí sau này. Bên cạnh đó, tại Trung Kỳ, sự ra đời của tờ báo Tiếng Dân (1927) do Huỳnh Thúc Kháng sáng lập cũng được xem như một dấu mốc quan trọng trong tiến trình lịch sử của báo chí Việt Nam.
Bên cạnh dòng báo chính thống và các báo có tư tưởng chính trị trung lập, một số báo khuynh tả với tiếng nói chống đối chính quyền Pháp đã ra đời. Điển hình, trong giai đoạn năm 1925 – 1926, tại Sài Gòn, một số nhà báo – chính trị gia có tầm ảnh hưởng lúc bấy giờ như Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, Nguyễn Khánh Toàn, Trần Huy Liệu đã cho xuất bản các tờ báo: La Cloche Fêlée (Tiếng Chuông Rè), L’Annam, Người Nhà quê, Đông Pháp Thời Báo… thể hiện tương đối rõ lập trường của mình đối với các vấn đề độc lập dân tộc. Ở nước ngoài, tờ báo Thanh Niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập ngày 21/06/1921 chính thức trở thành tờ báo cách mạng đầu tiên của Việt Nam. Từ năm 1925 – 1929, báo chí cách mạng nước nhà tồn tại song hành cùng với hoạt động của các trí sĩ yêu nước tại Trung Quốc, Pháp, Thái Lan và chỉ sau năm 1929, khi phong trào cộng sản bắt đầu xuất hiện ở nước ta, mạng lưới báo chí cách mạng tại địa phương mới bắt đầu hình thành và phát triển. Tiêu biểu phải kể đến Tạp chí Cộng sản bao gồm Tạp chí Đỏ và Lao Động (1929). Bên cạnh đó, hoạt động báo chí cách mạng trong các nhà tù thực dân của những người cộng sản Việt Nam cũng phát triển như một dòng mạch riêng, tồn tại bất hợp pháp song vẫn có một đời sống bền bỉ, là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời của cách mạng Việt Nam.
Từ những năm 1925 trở đi, ở nước ta đã có khoảng 100 tờ báo, được viết bằng rất nhiều văn tự khác nhau, bao gồm báo chữ Pháp, Anh, chữ quốc ngữ, chữ Hán… Trong giai đoạn 1930 – 1938, trên khắp cả nước đã có khoảng 400 tờ báo, trong đó báo tiếng Việt chiếm tới 2/3. Các tờ báo ra đời trong thời kì này chính là minh chứng cụ thể, sinh động ghi lại những tác động sâu sắc của văn hóa phương Tây tại Việt Nam; gắn liền với những tiếng nói kêu gọi cách tân, đổi mới, xóa bỏ các hủ tục, lề thói không còn hợp thời, hướng về các giá trị dân chủ, tự do, tiến bộ hơn. Các báo Phong Hóa (1932 – 1936), Ngày Nay (1935 – 1940), Thanh Nghị (1941 – 1945), Tri Tân (1941 – 1945) đều là những tờ báo có tầm ảnh hưởng lúc bấy giờ. Ngoài ra phải kể đến nhóm Tân Dân với Tiểu thuyết thứ bảy, Phổ thông bán nguyệt san, Ích hữu, Tao Đàn, Truyền bá và hai tủ sách Tủ sách Tao Đàn, Tủ sách Những tác phẩm hay hoạt động rất mạnh từ giữa thập niên 30 đến đầu những năm 40 của thế kỉ XX. Trên các tờ báo và tạp chí đó hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng đã ra đời và cũng là một mảnh đất tốt ươm tạo cho nhiều tài năng văn chương đương thời. Sang tới giai đoạn 1939 – 1945, khi Nhật “hất cẳng” Pháp ở Đông Dương và thực hiện chế độ cai trị của mình tại đây, nhiều tòa soạn đã phải đóng cửa, số lượng báo được xuất bản giảm mạnh, tới năm 1945 chỉ còn lại 200 tờ. Trước những biến động khôn lường ấy, các nội dung văn học – nghệ thuật có tính riêng tư đã tỏ ra không phù hợp với tình cảnh chung của đất nước. Trái lại, do phản ánh và theo kịp những sự kiện, tin tức thời sự “nóng hổi”, đồng thời cất lên được tiếng nói của toàn thể dân tộc trước nạn ngoại xâm, báo chí cách mạng bắt đầu nở rộ và lên ngôi với sự xuất hiện của hàng loạt các tờ báo Đảng mang tầm cỡ toàn quốc như: Cờ Giải Phóng (1942), Việt Nam Độc Lập (1941) do Hồ Chí Minh sáng lập, tồn tại đến năm 1945 với hơn 200 số, Cứu Quốc (1942) của Mặt trận Việt Minh.
Nhìn chung, ở giai đoạn này, dẫu báo chí Việt Nam được hình thành trên nền tảng báo chí thuộc địa, song từ sự ra đời của tờ báo quốc ngữ đầu tiên cho tới hàng loạt các tạp chí, các cây bút với những bài viết đa dạng, có giá trị học thuật và văn hóa cao đã đặt một nền móng vững chắc cho nền báo chí nước nhà trong những giai đoạn tiếp theo. Nói cách khác, ngay từ khi mới xuất hiện, báo chí đã luôn thực hiện tốt vai trò “cánh chim đầu đàn” của mình trong việc truyền bá tri thức, mở mang dân trí, cung cấp những kiến thức và trở thành kho lưu trữ những kinh nghiệm, tư tưởng, những giá trị tinh thần quý giá của dân tộc. Ý nghĩa này vẫn tiếp tục được các thế hệ làm báo phát huy ở những giai đoạn sau, trở thành một trong những sứ mệnh hàng đầu của báo chí Việt Nam xuyên suốt mọi thời đại.
2. Sang tới thời kì 1945 – 1954, ở buổi đầu thành lập của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ, các nhà cầm quyền hiểu rõ hơn hết vai trò và sức mạnh to lớn của báo chí đối với việc củng cố chính thể mới, gia tăng sự tin tưởng và đoàn kết trong nội bộ chính quyền cũng như toàn thể nhân dân, do đó đã kịp thời cho ban hành những văn bản chỉ đạo đường lối, cách thức tổ chức, quản lý hệ thống báo chí sao cho đạt được sự đồng bộ, thống nhất và hiệu quả cao. Báo chí Việt Nam giai đoạn đầu (1945 – 1946) nhìn chung đảm bảo tôn trọng quyền tự do ngôn luận, tự do dân chủ; ngay cả những đảng phái chính trị có khuynh hướng đối lập cũng có thể xuất bản báo chí. Tuy nhiên, dù hoạt động dựa trên nguyên tắc, tư tưởng nào, tinh thần chung của báo chí nước nhà vẫn phải xuất phát từ lợi ích dân tộc; phải trở thành vũ khí sắc bén bảo vệ chính quyền nhân dân và đoàn kết chống kẻ thù chung khi cần thiết; đồng thời tăng cường mở rộng, tái cơ cấu hệ thống báo chí địa phương, đưa báo chí cách mạng đến gần hơn với đông đảo quần chúng nhân dân.
Báo chí cách mạng thời kỳ này đã gặt hái được nhiều thành tựu rực rỡ, tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của mình trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ chính quyền Nhân dân, đồng thời trở thành nguồn động viên, cổ vũ to lớn, khích lệ tinh thần các chiến sĩ Vệ quốc trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ, cam go và ác liệt mà vinh quang, hào hùng. Các tờ báo cách mạng lớn tiếp tục tồn tại, phát triển, cập nhật và tác động trực tiếp tới tình hình chính trị lúc bấy giờ, điển hình phải kể đến báo Cờ Giải Phóng do Cơ quan TW Đảng Cộng Sản Đông Dương đại diện, ra được 28 số; báo Cứu Quốc của Tổng bộ Việt Minh, ra công khai đến số 31, ngày 24/08/1945, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công. Bên cạnh đó, nhiều tờ báo khác cũng đã ra đời kịp thời, phục vụ nhiều nhiệm vụ cách mạng đa dạng, từ công tác phân tích, bồi dưỡng lý luận chính trị cho tới việc đưa tin, cập nhật tình hình chiến sự, cổ vũ tinh thần chiến đấu… Có thể kể đến một số tờ báo nổi bật lúc bấy giờ như: Tạp chí Sự Thật (Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mac) do đồng chí Trường Chinh làm chủ bút, chuyên viết về mảng thông tin và lý luận, đi sâu phân tích, lý giải, bình luận, định hướng đường lối, tư tưởng với các vấn đề đa dạng như cải cách ruộng đất, cải cách tiền tệ, ngoại giao Xô – Trung… báo Tiên Phong (Hội văn hóa cứu quốc Việt Nam) đánh dấu nhiều thành tựu của công tác tuyên truyền trên mặt trận văn hóa – nghệ thuật; là tờ báo có trình độ khá cao về văn học – nghệ thuật, quy tụ những nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà báo, nhà thơ có tên tuổi, bao gồm Nam Cao, Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Văn Cao, Đặng Thai Mai, Tô Ngọc Vân… Đã ra được 24 số trong giai đoạn này; Quân đội Nhân dân với tiền thân là các tờ Vệ Quốc quân, Quân Du kích, ra đời khi cuộc kháng chiến chống Pháp chuyển sang giai đoạn tổng phản công, là tờ báo chuyên biệt dành cho người lính, phản ánh tư tưởng quân sự, đời sống các lực lượng vũ trang. Đây chính là cái nôi đào tạo ra nhiều cây bút lớn như: Trần Cư, Phạm Hữu Bằng, Trần Thiếp, Lê Bách, Vũ Tú Nam…
Ở thời kì này, ngoài báo viết, Chính phủ cách mạng cũng đã chú ý đến những hình thức báo chí khác như Đài Tiếng nói Việt Nam (7/9/1945), Thông tấn xã Việt Nam (15/09/1945)... Tất cả các phương tiện đa dạng kể trên đã giúp báo chí giai đoạn này có được nhiều bước đột phá trong cách thức và cả nội dung thể hiện, từ đó làm tốt hơn nữa mọi nhiệm vụ cách mạng mà Đảng và nhân dân giao phó, thực hiện đúng sứ mệnh “người thư ký trung thành” của thời đại bất chấp mọi gian khổ, nguy nan.
3. 1945 – 1975 là thời kỳ mà báo chí Việt Nam tồn tại trong sự phân hóa với cục diện đặc biệt, khi hai miền Nam – Bắc bị chia cắt với hai chế độ chính trị khác nhau, do đó hệ thống báo chí và công tác xuất bản cũng có những cách thức hoạt động riêng. Ở miền Bắc Xã hội chủ nghĩa, báo chí được bao cấp hoàn toàn và có sự đồng bộ hóa, nhất quán trong cách thức triển khai, vận hành; không giống với hệ thống báo chí tư bản đa đảng phái, phát triển tự do theo hướng tư nhân hóa, đặt lợi nhuận lên hàng đầu như ở miền Nam lúc bấy giờ. Đặc biệt, bộ phận báo chí cách mạng tại đây cũng tồn tại song song, đan xen với báo chí thực dân, thể hiện rất rõ tinh thần phản kháng chính quyền tư bản độc tài, đại diện cho tiếng nói yêu nước và yêu chuộng hòa bình của nhân dân miền Nam.
Xuyên suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ trường kì, ác liệt và gian khổ của dân tộc, Đảng và Nhà nước vẫn xem báo chí như là công cụ tuyên truyền đắc lực, đi đầu trong việc cổ vũ công cuộc lao động, sản xuất của nhân dân miền Bắc, thúc đẩy tinh thần chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược của chiến sĩ và nhân dân cả nước, đặc biệt là đồng bào, chiến sĩ tại chiến trường Nam bộ. Trong tiến trình xây dựng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, hệ thống báo chí với khoảng dưới 100 tờ được đặt dưới sự điều phối của Đảng và Nhà nước, phân chia thành các nhóm báo tương ứng với các chủ đề riêng. Nhóm báo về chính trị – xã hội với nội dung xây dựng con người Xã hội chủ nghĩa, giáo dục tinh thần cách mạng, gương người tốt việc tốt… bao gồm các tờ Nhân Dân, Quân đội Nhân dân, Hà Nội Mới, Hải Phòng… Nhóm báo về văn hóa – văn nghệ: Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Văn Nghệ; Tiên Phong, Phụ Nữ Việt Nam, Lao Động… Lúc này, kỹ thuật in ấn báo chí đã có sự phát triển nhất định, tiếp cận được kỹ thuật in màu với sự hỗ trợ nhà in Tiến Bộ (CHDC Đức). Không những thế, trình độ nghiệp vụ – chuyên môn của các nhà báo thời kỳ này cũng đã đạt tới sự chuyên nghiệp nhất định. Nhiều mô hình tạp chí sở hữu những cây bút chuyên sâu với các bài viết có chất lượng cao. Bên cạnh bốn phân ngành chủ đạo văn – sử – địa – triết của tạp chí giai đoạn sau khi lập lại hòa bình, Tạp chí Cộng Sản (tiền thân của nó là Tạp chí Đỏ những năm 1930 và Cộng sản những năm 1940) vẫn tiếp tục hoàn thành sứ mệnh của mình với nền báo chí cách mạng truyền thống, không ngừng đổi mới để củng cố, xây dựng và hoàn thiện nền tảng lí luận chính trị của quốc gia.
4. Từ năm 1975 đến nay, nền báo chí nước nhà đã trải qua không ít những thăng trầm, biến động; song không vì thế mà vai trò của nó đối với việc phản ánh toàn diện những vấn đề đương thời, đồng hành cùng lịch sử dân tộc, cung cấp thông tin, mở mang tri thức, định hướng những trân giá trị của nó bị mai một đi giữa dòng chảy hối hả, bộn bề của đời sống xã hội. Kể từ ngày đất nước thống nhất, tiến hành xây dựng Xã hội chủ nghĩa, tất cả các sự kiện, biến cố lớn như: cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra đỉnh điểm vào giai đoạn 1979 – 1990, hai cuộc chiến ở biên giới phía Bắc và biên giới Tây – Nam, công cuộc Đổi Mới ngoạn mục năm 1986 với dấu mốc lịch sử đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng để cải tổ và xây dựng một nền kinh tế – xã hội mới, cho tới khi Việt Nam gia nhập các tổ chức quốc tế, bắt đầu gây dựng và lấy lại vị thế, vai trò và tiếng nói trên thế giới, nhân dân cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ đã vượt qua thử thách của đại dịch Covid-19 trong khoảng thời gian vừa qua… đều đã được báo chí kịp thời “đón đầu”, ghi nhận, truyền tin, bình luận và cung cấp những chỉ dẫn, định hướng một cách đúng đắn và chính xác nhất.
Ở thời kì trước đổi mới (1975 – 1986), cùng với việc thống nhất, kiện toàn bộ máy Nhà nước, hệ thống báo chí cũng đã được xây dựng, đồng bộ hóa trên những nguyên tắc nhất định. Tháng 7/1976, Hội Nhà báo Việt Nam (miền Bắc) và Hội nhà báo yêu nước và dân chủ miền Nam Việt Nam hợp nhất, lấy tên là Hội Nhà báo Việt Nam. Do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thời kì này, các công cụ, tài liệu phục vụ công tác in ấn, xuất bản gặp rất nhiều khó khăn. Giữa những năm 1980, ở nước ta chỉ có khoảng 100 tờ báo, trong đó có 07 tờ báo Trung ương, 40 tờ báo địa phương, lực lượng vũ trang có 29 tờ báo, 06 tờ báo đối ngoại, 10 tờ về văn học nghệ thuật. Báo viết vẫn chiếm ưu thế ở giai đoạn này với hoạt động tương đối sôi nổi của những tờ báo đã tồn tại từ trước năm 1975 như: Nhân Dân, Quân đội Nhân dân, Tạp chí Cộng Sản, Văn Nghệ, Phụ nữ Việt Nam, Thanh Niên, Tạp chí Điện Ảnh… Bên cạnh đó, đã xuất hiện một số tờ báo có sự đột phá, cách tân về nội dung, hình thức và cách thức tổ chức thực hiện như: Tuổi Trẻ TP.Hồ Chí Minh (1975), Thanh Niên (1986). Những tờ báo này khi ra đời đều thu hút được sự chú ý, đón nhận từ người đọc. Ngoài ra, hệ thống truyền hình chính cũng đã chính thức đi vào thời kỳ xây dựng và phát triển. Đài TNVN có ảnh hưởng rất lớn trên mọi phương diện đời sống xã hội.
Bước vào giai đoạn Đổi mới, báo chí cũng có những bước tiến đáng kể, song hành với những thay đổi của nền kinh tế, xã hội. Đại hội V Hội Nhà báo Việt Nam năm 1989 đã đề xuất những phương hướng đổi mới báo chí theo hướng hiện đại hóa, phù hợp với quy luật xã hội, tiếp cận và cung cấp những luồng thông tin đa chiều; chủ động, thường xuyên đi vào công tác chống tiêu cực, phơi bày sự thật và những mặt trái còn tồn đọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, từ đó xác định đường hướng cải tổ, thay đổi, khắc phục những hạn chế còn tồn đọng và phát huy các mặt tích cực đã đạt được; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng song cũng cần phải mở rộng dân chủ cho báo chí.
Luật Báo chí năm 1990 ra đời là một dấu mốc đối với lịch sử báo chí Việt Nam đương đại. Bộ luật gồm 31 điều, với rất nhiều điểm mới cần ghi nhận: thông tin trên báo chí phải tuân thủ tính khách quan và đưa ra những góc nhìn đa chiều trong khuôn khổ tôn trọng sự thật, tôn trọng luật pháp, Hiến pháp; người dân hoàn toàn có quyền sử dụng các cơ quan báo chí để bày tỏ nguyện vọng, thắc mắc, đồng thời tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của chính mình. Bên cạnh đó, hoạt động của báo chí theo cơ chế bao cấp cũng đã có sự chuyển đổi sang hoạt động có tính chất hàng hóa, chấp nhận cạnh tranh, đa dạng hóa trong lĩnh vực báo chí, mở rộng phát triển các mô hình báo chí tư nhân. Ngoài hình thức báo in truyền thống, giữa thời đại chuyển đổi số với sự bùng nổ của Internet và các kỹ thuật – công nghệ hiện đại, các loại hình báo chí đa phương tiện đã xuất hiện và phát triển với tốc độ ngày càng nhanh chóng và mạnh mẽ. Tính đến thời điểm hiện tại, dù có nhiều thay đổi về hình thức, cách thức hoạt động, song báo chí vẫn luôn giữ vững được vai trò quan trọng của mình trong việc cập nhật, theo sát và chuyển tải kịp thời tình hình thời sự, đời sống – xã hội; góp phần thúc đẩy, mở rộng vốn tri thức, làm dồi dào và phong phú thêm những giá trị tinh thần cho đông đảo quần chúng nhân dân.
Với xuất phát điểm từ một nền báo chí được thai nghén và hình thành trong lòng thuộc địa, báo chí Việt Nam đã trải qua những thăng trầm, biến động tương ứng với các giai đoạn phát triển của lịch sử dân tộc: Từ thời kỳ thuộc địa cho đến khi giành được độc lập, hình thành Nhà nước mới và trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước, khi non sông liền một dải cho tới những bấp bênh của thời kì khủng hoảng kinh tế – xã hội và chính thức thay da đổi thịt để bước vào giai đoạn hội nhập, đổi mới. Thực tế cho thấy, dẫu ở thời đại nào, báo chí Việt Nam vẫn luôn giữ một vai trò quan trọng, không thể thay thế được trong đời sống dân tộc. Là một nền báo chí đa dạng, phong phú, đi từ thô sơ đến hiện đại; mang tính chất nghiệp dư đến chuyên nghiệp; từ những hoạt động đơn lẻ, riêng rẽ trong từng giới xã hội cho đến các hoạt động chính trị chung, báo chí nước ta vẫn luôn từng ngày từng giờ hiện diện, đồng hành với mọi bước tiến của dân tộc, trở thành một trong những kênh thông tin có giá trị và nguồn cung tri thức dồi dào nhất tới mọi tầng lớp nhân dân, góp phần định hướng những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp, khai mở tư duy tiến bộ và là bệ phóng cho mọi ý tưởng dựng xây, kiến thiết đất nước. Nhìn lại toàn bộ chặng đường hình thành và phát triển của lịch sử báo chí Việt Nam, dẫu còn nhiều thách thức và khó khăn phía trước, song ta hoàn toàn có thể đặt niềm tin vào một thế hệ những nhà báo có đủ tài năng, tâm huyết, tinh thần dũng cảm, sáng tạo sẽ tiếp tục kế thừa và phát huy những thành tựu đã đạt được từ các thế hệ đi trước để tiếp tục hoàn thành xuất sắc hơn những mục tiêu, sứ mệnh to lớn của báo chí quốc gia trong tương lai.■
Ngọc Lan
(theo Tạp chí Phương Đông)