Nam Định những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp qua nhật ký của viên công chức Pháp

Trong những ngày đầu phát động toàn quốc kháng chiến năm 1946, ngọn lửa quyết tâm không chỉ bùng cháy tại Hà Nội mà còn tỏa sang các tỉnh thành lân cận. Nam Định khi ấy – một trong những khu công nghiệp quan trọng, đã kiên cường cầm chân địch suốt 86 ngày đêm. Tạp chí Phương Đông dịch và giới thiệu đoạn nhật ký của viên công chức người Pháp G. Lefrève chứng kiến và ghi lại những ngày tháng khói lửa tại Nam Định vào cuối năm 1946, đầu năm 1947. Bài viết đăng trên tạp chí “Revue des deux mondes” số tháng 12 năm 1966, các từ ngữ và quan điểm trong bài được giữ nguyên để đảm bảo tính khách quan (Tiêu đề bài viết do Tòa soạn đặt)

Tài liệu mà chúng tôi công bố dưới đây là lời kể của một nhân chứng. Ông G. Lefèvre đang là một công chức tại Bắc Kỳ và ở Nam Định khi Việt Minh mở cuộc tấn công, đây là “nhật ký” mà ông ghi chép lại cho đến ngày kết thúc của cuộc bao vây kéo dài 86 ngày.

Từ trên sân thượng nhìn xuống Ngân hàng Đông Dương nằm giữa trung tâm Nam Định, chúng tôi thấy nhà máy điện đang rực lửa. Đó là đêm 19 rạng sáng ngày 20/12/1946. Ba giờ đồng hồ trước đó, những tiếng súng đầu tiên đã vang lên ở Hà Nội. Cuộc chiến tranh tại Đông Dương bắt đầu. Ngọn lửa này sẽ trở thành một biển lửa mà tới tận 20 năm sau vẫn chưa được dập tắt.

Chủ trương đồng loạt nổ súng tiến công trong đêm 19/12/1946 tại Thủ đô Hà Nội và các thành phố khác thể hiện sâu sắc tư tưởng chiến lược tấn công, giúp ta chủ động giành quyền đánh trước, đẩy giặc Pháp vào thế bị động đối phó. Ảnh tư liệu: TTXVN

Những thử thách của chúng tôi bắt đầu từ 18 tháng trước. Cho đến thời điểm ấy, và thực tế là từ năm 1940, người Nhật đã chiếm đóng, nhưng chính quyền Pháp vẫn còn tại vị. Cuộc đảo chính của Nhật ngày 9/3/1945 đã thay đổi tình hình hoàn toàn: Hiến binh Nhật xuất hiện, chúng tôi sắp phải chứng kiến những vụ cướp bóc, tàn phá, tra tấn, trại tập trung và những buổi hành quyết không qua xét xử. Sau khi Tokyo đầu hàng, chúng tôi tưởng rằng mình đã được cứu. Ba tháng yên bình. Rồi binh lính của Tưởng Giới Thạch kéo đến Bắc Kỳ để “bảo vệ” chúng tôi.

Quân của Tưởng Giới Thạch là những người đàn ông nhỏ bé, rách rưới. Họ lặng lẽ diễu qua các khu phố ở Nam Định trên đôi dép cũ kĩ của mình, họ đã đi bộ từ dãy núi ở Vân Nam đến đây, đó là lần đầu họ rời xa quê hương. Họ chưa từng thấy ô tô bao giờ. Họ đang khám phá một thế giới hoàn toàn xa lạ. Một đạo quân ư? Không, đúng hơn là một bọn hỗn tạp như thảo khấu. Không phải ai cũng có vũ khí, nhưng ai nấy đều có chiếc ô đeo chéo… Cảnh tượng đó thật sinh động, nhưng cũng mang lại nhiều lo âu cho những người Pháp từng sống ở Vân Nam. “Những người đó từng là một toán cướp”, họ giải thích với chúng tôi. Và quả thật, họ vẫn giữ nguyên bản chất cướp bóc ấy. Họ sống nhờ vào đất nước này, vơ vét mọi thứ theo luật riêng của họ. Toán quân ấy càn quét sạch sẽ các nhà máy và cả những ngôi nhà riêng, mang đi hết thảy, từ ổ khóa đến tay nắm cửa. Đó là cuộc chiếm đóng lần 2. Chỉ khác lần đầu ở chỗ người ta không còn xả súng nữa. Nhưng “đồng minh Trung Quốc” của chúng tôi lại chống cự dữ dội với quân đội của tướng Leclerc khi họ đổ bộ xuống Hải Phòng ngày 6/3/1946.

Cuối cùng chúng tôi cũng thoát khỏi những “người bảo vệ” của mình. Khi Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn bộ binh thuộc địa số 23 tiến vào Nam Định đầu tháng 4/1946, chúng tôi nghĩ rằng tai ương của mình đã chấm dứt. 200 người Pháp vẫn sống trong thành phố đón chào các binh sĩ của chúng tôi nồng nhiệt. Đến tháng 9, Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn bộ binh số 6, dưới quyền chỉ huy của Daboval đến thay quân. Họ cũng nhận được sự tiếp đón nồng hậu tương tự từ cộng đồng người Pháp. Về phía người Việt, họ không tỏ ra thù địch. Nhưng đó chỉ là ảo tưởng. Thời kỳ đình chiến mà chúng tôi đang hưởng kéo dài thêm hai tháng nữa, song chẳng bao lâu, rõ ràng là đang có sự chuẩn bị cho cuộc giao tranh.

Các con đường đầy những thân cây lớn chắn ngang, gia cố thêm bằng bao cát. Khu vực người Pháp chiếm đóng dần dần bị bao vây. Căng thẳng leo thang không ngừng suốt nửa đầu tháng 12. Dự báo một cuộc tấn công sắp xảy ra, chỉ huy Daboval cho lập hai điểm kháng cự. Ở phía tây thành lập trại Ca-rô, là các tòa nhà và biệt thự của công ty dệt với tường cao bao quanh trở thành một pháo đài thực thụ. Ngay trung tâm thành phố, Ngân hàng Đông Dương, một tòa nhà bê tông ba tầng giữa khu vườn có hàng rào sắt, nhanh chóng biến thành pháo đài nhỏ. Từ sân thượng có thể nhìn bao quát thành phố, người ta xây một bức tường thấp và khoét các lỗ châu mai cho 28 dân thường người Pháp, người Pondicherry, người Hoa và người Việt sẽ ẩn náu ở đây, cùng 12 lính thủy đánh bộ có nhiệm vụ bảo vệ họ. Chúng tôi đã sẵn sàng cho một cuộc bao vây mà mọi dấu hiệu đều báo trước sẽ vô cùng khốc liệt.

Tòa nhà Ngân hàng Đông Dương tại Nam Định những năm 1930. Ảnh tư liệu

450 lính thủy đánh bộ có mặt tại đồn trú Nam Định, chỉ có vũ khí bộ binh: súng trường, tiểu liên, trung liên, lựu đạn, bazooka và súng cối 60mm. Đối đầu họ là quân Việt Minh gồm các lính khố xanh từng phục vụ trong quân đội Pháp, Tự Vệ – lực lượng dân quân được tuyên truyền mạnh mẽ. Đội quân này chẳng thiếu gì vũ khí hay đạn dược sau khi cướp kho vũ khí của chúng tôi.

Trong ngày 19/12, cuộc giao tranh suýt chút nữa thì nổ ra. Chỉ huy ra lệnh phá bỏ các chướng ngại vật dựng xung quanh hai khu phòng thủ của chúng tôi. Xe tải tuần tra trong các con phố tới nửa đêm. Quân Việt Minh ẩn mình, im lìm.

Chẳng bao lâu sau lúc nửa đêm, mọi sự bắt đầu. Một loạt tiếng nổ dữ dội rung chuyển toàn thành phố, Việt Minh vừa cho đánh sập các bể chứa nước. Rồi những ngọn lửa bùng lên soi rực bầu trời: nhà máy điện bốc cháy. 1 giờ 30 phút sáng, tiếng súng nổ dữ dội: đạn cối, tiếng rền của súng máy vang khắp. Ở Ngân hàng Đông Dương, dân thường tập trung lại ở tầng một của tòa nhà. Quanh khu trại phía tây và công ty bông, nơi phần lớn người dân chúng tôi cùng 45 lính thủy đánh bộ cố thủ, trận chiến diễn ra ác liệt. Chúng tôi nghe rõ tiếng la hét của những người Việt đang xông lên tấn công. Không có đài cũng chẳng có điện thoại, chúng tôi không biết gì về số phận những người đang bị vây hãm. Từ sân thượng, binh lính của chúng tôi bắn liên hoàn vào phe Việt Minh. Chỉ đến khi trời vừa hửng sáng, tiếng súng mới dịu lại. Sáng hôm đó, tôi bắt đầu viết cuốn nhật ký về cuộc vây hãm.

Trung sĩ Hermelin, người chỉ huy đơn vị bảo vệ ngân hàng, quyết định cho toàn bộ dân thường xuống tầng hầm. Ở đó, nếu có thêm đợt pháo kích mới thì họ sẽ an toàn hơn. Cuộc sống bị giam hãm của chúng tôi bắt đầu trong căn hầm bê tông – nơi mà dù là giữa ban ngày thì cũng chẳng sáng hơn ban đêm là bao, chỉ có ánh đèn dầu le lói.

Ngày đầu tiên tương đối yên bình. Vài loạt đạn bắn về phía tòa nhà; lính của chúng tôi đáp trả bằng cách quét súng máy vào các ngôi nhà xung quanh và những con phố bên cạnh khi có nhóm quân nào của phe Việt Minh tiến tới gần. Một chiếc Catalina của quân đội Pháp bay tầm thấp phía trên thành phố – một tín hiệu tốt vì có thể quân tiếp viện đang trên đường đến.

Ngày 23/12. Sau 3 ngày yên ắng, quân Việt Minh mở một cuộc tấn công mới. Họ đã chờ tới đúng đêm không trăng, một trong những đêm ở vùng nhiệt đới tối tăm đặc quánh. Lần này, đạn pháo dồn dập trút xuống cả khu công nghiệp bông sợi và ngân hàng. Quân Việt Minh đã tiến được vào trong vườn, chiếm giữ nhà để xe, chỉ cách tòa nhà chính khoảng 20 mét.

Ngày 25/12. Đầu đêm, lính của chúng tôi quan sát, nói đúng hơn là linh cảm được có những đám đông lớn tụ tập trong công viên liền kề và trong tòa nhà ngay cạnh nơi từng là Tòa án. Súng bazooka và súng cối ngay lập tức được khai hỏa. Quân Việt Minh tản ra, nhưng những tốp khác lại kéo đến và trận chiến tiếp tục kéo dài đến sáng.

Kho đạn dược của chúng tôi dần vơi đi một cách đáng lo ngại. Không còn hy vọng vào tiếp tế vì thả dù tiếp viện lên sân thượng là việc bất khả thi. Viên trung sĩ trẻ chỉ huy đơn vị bảo vệ ngân hàng nghĩ đến một phương án phá vòng vây: mở một lối ra ở cổng phía tây khu vườn, 12 binh sĩ sẽ hộ tống dân thường, cố gắng chạy sang phía khu công ty dệt sợi, nơi được củng cố kiên cố, cách nơi này chừng 500 mét. Nhưng kế hoạch này quá mạo hiểm, chúng tôi có nhiều trẻ em. Cuộc thoát thân đó có thể kết thúc bằng một vụ thảm sát.

Cuối cùng, chúng tôi quyết định kéo lên sân thượng, bên cạnh lá cờ có hình chữ thập Lorraine, chúng tôi kết một dấu hiệu cầu cứu khổng lồ SOS từ những tấm ga trải giường xoắn lại. Vừa mới dựng xong, một chiếc máy bay từ hướng bắc bay qua thành phố. Nó lượn qua lượn lại nhiều lần quanh tòa ngân hàng, chắc chắn phi công đã nhìn thấy tín hiệu cầu cứu của chúng tôi.

Ngày 1/1/1947. Năm mới dường như mang tới khởi đầu mới. Dù sao chúng tôi cũng đã có vài đêm tương đối yên bình và thật may mắn, vì đến giờ, đồn nhỏ của chúng tôi không còn đủ khả năng chống trả nếu bị tấn công ồ ạt.

Ngày 4/1. Buổi chiều, tám chiếc máy bay xuất hiện và oanh tạc các vị trí của quân Việt Minh, đặc biệt ở quanh khu kháng cự của chúng tôi. Mức độ tàn phá dường như rất lớn.

Ngày 5/1. Từ sáng sớm máy bay đã quay lại, các đợt khác tiếp nối cả ngày. Những loạt bom dày đặc trút lên các ngôi nhà gần ngân hàng nhất – nơi là lô cốt của Việt Minh. Đến nay, chúng tôi đã bị bao vây suốt 18 ngày, hoàn toàn mất liên lạc với bên ngoài, nhưng hy vọng bắt đầu trở lại.

Nửa đêm, ánh trăng sáng rực. Chúng tôi lại nghe thấy tiếng động cơ rì rì trên cao. Tất cả đổ ra sân thượng, quân Việt Minh đang bắn súng lên trên. Chưa khi nào có nhiều máy bay đến Nam Định như thế. Và đột nhiên, giữa bầu trời đầy sao, những chùm dù lớn hiện ra hệt như những bông hoa nở trong không trung, lính dù đang được thả xuống. Họ chậm rãi hạ mình xuống rìa tây nam thành phố.

Sau này chúng tôi mới biết rằng Đại tá de Bollardière đã giao nhiệm vụ cho họ trinh sát địa hình và đánh dấu bãi đáp. Phía Việt Minh bất ngờ nên không kịp phản ứng. Nửa giờ sau, một phi đội khác xuất hiện. Lần này, hàng chục lính dù nữa được thả xuống. Việt Minh đã kịp trấn tĩnh và đón họ bằng một trận mưa đạn dữ dội. Một trận chiến giáp lá cà khốc liệt sắp bắt đầu.

Ngày 6/1. Vừa tờ mờ sáng, trận chiến vẫn đang tiếp tục thì một loạt pháo bỗng vang lên dữ dội. Tiếng nổ từ con kênh Nam Định chỗ hợp lưu với sông Hồng vọng lại, cách đây khoảng chừng 5 – 6 cây số. Lúc 7 giờ sáng từ sân thượng, chúng tôi thấy một đoàn tàu chiến – tàu LCT và tàu LCM và các sà lan đổ bộ. Chúng tiến dọc kênh, hướng về cầu tàu của công ty dệt. Nhưng phía Việt Minh đã tập trung ở đó và chống trả quyết liệt. Tiếng súng rền vang cả trong khu vực lính dù đổ bộ.

Không quân quần thảo suốt trên những con phố dẫn tới ngân hàng. Rõ ràng là họ đang cố mở đường giải cứu chúng tôi. Chúng tôi dõi theo từng bước tiến của binh lính trong lo âu và hy vọng. Đến 4 giờ chiều, họ chỉ còn cách chúng tôi khoảng 150 mét thì lại bất ngờ quay đầu rút lui. Màn đêm buông xuống, đoàn tàu lại theo hướng sông Hồng trở ra biển để về Hải Phòng. Một lần nữa chúng tôi lại bị bỏ lại, cô độc.

Đội du kích Hồng Phong, huyện Nghĩa Hưng, Nam Định trong kháng chiến chống Pháp. Ảnh tư liệu

Sau này, chúng tôi mới biết chiến dịch đó đã cướp đi mạng sống của nhiều lính dù. Có người lạc trong đầm lầy, có người chết thảm thương. Một số lính dù khác, rơi xuống giữa thành phố, kể rằng từ trên mái nhà, dưới ánh trăng soi sáng, anh nhìn thấy một cảnh tượng kinh hoàng: người đồng đội xấu số, bị lột trần và trói giữa nhóm phụ nữ Bắc Kỳ đang rạch da anh. Chính anh là người kêu cứu, phát ra những tiếng đau đớn mà chúng tôi nghe giữa đêm đó. Sáng hôm sau, một đội tuần tra do người lính dù sống sót dẫn đường tìm được thi thể của anh.

Ngày 7/1. Đêm và ngày khá yên tĩnh. Việt Minh hẳn đã chịu tổn thất nặng nên chỉ còn bắn những loạt đạn rời rạc. Chúng tôi dù thất vọng vì quân Pháp đã rút lui nhưng vẫn giữ niềm hi vọng. Nếu đợt tấn công đầu tiên thất bại thì vẫn còn những đợt khác nữa. Và ít nhất, điều đó chứng tỏ rằng chúng tôi chưa bị lãng quên.

Ngày 8/1. Quả thật, chúng tôi hi vọng là có lý. Gần trưa, một đợt không kích mới bắt đầu. Những chiếc Junkers nối nhau trút bom xuống hai con phố từ ngân hàng đến nhà máy dệt; rồi những chiếc Spitfire quét súng máy xuống bất cứ thứ gì còn động đậy. Nhưng lần này không chỉ có máy bay – cả một đoàn quân tiếp viện đang đến. Từ sân thượng, chúng tôi thấy một chiếc xe tăng Pháp bất ngờ xuất hiện ở quảng trường nhà thờ, theo sau là nhiều xe tải chở lính và thùng tiếp tế. Khoảng 20 lính dù đội mũ nồi đỏ, mặc quân phục họa tiết báo tỏa ra khắp nơi, truy quét Việt Minh trong đống đổ nát hoặc trên cây. Chẳng bao lâu họ đã tới cổng.

Viên đạn Colt bắn vỡ ổ khóa. Các xe tải lao vào sân, đỗ trước một cánh cửa thép nhỏ. Khoảng 20 lính dù nhảy vào tòa nhà, trèo qua bàn ghế, quầy thu ngân, chiếm vị trí bên cửa sổ để bảo đảm việc dỡ hàng từ xe xuống. Một trung đội lính thủy đánh bộ do trung úy Maudet chỉ huy đến thay thế trung sĩ Hermelin và những người đã bị kẹt trong ngân hàng với chúng tôi suốt 20 ngày qua. Họ cũng đem theo đạn dược và thiết bị vô tuyến. Không đời nào chúng tôi rút khỏi ngân hàng vì mục tiêu số một của Việt Minh là số tiền trong két.

Khi xong xuôi việc dỡ hàng, dân thường bắt đầu di tản giữa làn đạn. Quân Việt Minh đã áp sát và bắn không ngừng. Trẻ con nằm rạp dưới đáy xe; đàn ông, phụ nữ co rúm lại, cố lấy những túi hành lý làm tấm chắn đạn. Xe tăng và một đơn vị công binh dẫn đầu đoàn xe tiến về nhà máy dệt, nơi dân thường ở trong một tòa nhà rộng lớn trước là xưởng nhuộm, trần rất cao, chia thành ba dãy rộng từ 6 – 8 mét bằng hai hàng máy móc. Không thiếu chỗ. Trong số 200 thường dân, nhiều người bị thương nặng không thể di chuyển, một số khác đã ngã xuống ngay trong lúc di tản ấy.

Chiếc xe cứu thương tạm bợ chiếm trọn một gian lớn, ở tít cuối được ngăn thành phòng phẫu thuật dã chiến. Gian giữa dành cho dân thường, gian thứ ba là khu ngủ nghỉ cho binh lính. Lúc này, toàn bộ đồn trú có khoảng 600 người. Sau những tổn thất nặng nề, chiến dịch đổ bộ ngày 6/1 chỉ tăng cường được chừng 150 binh sĩ. Ban đầu, Bộ chỉ huy Pháp dự định thả thêm một đợt lính dù nữa, nhưng kế hoạch bị hủy do hỏa lực phòng không của đối phương quá mạnh, vượt ngoài dự đoán.

Dẫu vậy, nay chúng tôi đã có hai khẩu pháo 105 ly; chiếc xe tăng thứ hai do tàu LCT chở đến thì bị pháo 75 ly của quân Việt Minh đánh chìm. Sau đó, một tiểu đội lính lê dương đã tiêu diệt họ. Bù lại, chúng tôi lấy được dụng cụ phẫu thuật, thứ trước giờ hoàn toàn thiếu thốn. Ngay sau trận chiến đầu tiên hồi tháng 12, chỉ huy Rouby – bác sĩ tiểu đoàn – từng phải miễn cưỡng dùng lưỡi cưa kim loại để cắt bỏ phần chân hoại tử của một cậu bé. Cuộc phẫu thuật thành công nhưng dĩ nhiên vị bác sĩ ấy mong có những dụng cụ đúng chức năng hơn. Tiểu đoàn cũng được bổ sung linh kiện thay thế cho vũ khí và xe cộ. Các kỹ sư và thợ máy của nhà máy dệt có thể đảm nhận việc sửa chữa cần thiết.

Ngày 9/1. Lần đầu tiên sau 3 tuần lễ, chúng tôi nhận thư và báo được thả dù xuống. Tất nhiên là thư một chiều, nhưng ngay sau khi rời khỏi ngân hàng, nhờ đài vô tuyến quân sự, chúng tôi đã có thể gửi tin cho gia đình và bạn bè ở Hà Nội hoặc bên Pháp.

Các đợt thả dù tiếp tế gồm lương thực, trang bị đạn dược, thuốc men, thư từ đều được thực hiện khi trời sáng. Nhưng vì bên Việt Minh đã có vũ khí mới và nhiều máy bay bị bắn trúng, Bộ chỉ huy quân sự Pháp quyết định tiến hành các đợt thả vào ban đêm: các thùng tiếp tế được thả từ độ cao thấp xuống đại lộ chính của trại, nơi chúng tôi dùng những thùng dầu cháy sáng để đánh dấu.

Sơ đồ mô tả chiến sự ở Bắc Bộ cuối tháng 12/1946, đầu tháng 1/1947 của báo ảnh The Sphere (Anh) ngày 18/1/1947. Nguồn: Fb Hanoi1946

Hệ thống phòng thủ được tổ chức rất vững chắc. Binh lính tìm thấy trong kho của nhà máy những kiện bông ép lớn, dùng cùng ván gỗ và xà ngang, họ có thể dựng các ổ súng máy gần như không thể phá hủy. Những chướng ngại vật tương tự cũng được đặt ở lối vào các con đường bị bắn cắt ngang do quân Việt Minh ẩn nấp trên gò cao hoặc trong tháp cũ – tàn tích của các pháo đài xưa. Những vị trí này chỉ cần vài phát pháo 105 ly đã có thể san phẳng.

Công việc gia cố phòng thủ bắt đầu ngay từ khi khu này bị vây hãm, và tiếp tục mở rộng sau khi chúng tôi đến, bao quanh toàn bộ khu trại. Nhiều khi, các đội biệt kích thực hiện những cuộc xuất kích nhỏ để xác định vị trí của đối phương, sau đó dùng pháo 105 ly và súng cối dội xuống những cơn mưa đạn. Tình hình cứ thế kéo dài suốt 64 ngày, chúng tôi trú trong nhà máy dệt Nam Định.

Binh lính chỉ được tiến hành những hoạt động rất hạn chế. Quân số quá ít, không thể phản công quy mô lớn trước đối thủ quá đông. Lượng đạn dược cũng không phải vô tận, cần tiết kiệm tối đa vì nếu việc tiếp tế bằng dù bị gián đoạn, chúng tôi sẽ rơi vào thảm cảnh. Ngay khi trời tối, toàn trại đều được báo động. Quân Việt Minh thường đợi đêm xuống hoàn toàn mới tấn công các đồn trại, điểm phòng thủ hay các vị trí kiên cố ở rìa trại. Tiếng hét, tiếng chiêng trống dồn dập hòa vào tiếng súng nổ tạo nên một bản hòa âm rùng rợn.

Xe tải lao đi chở quân tiếp viện ngay lập tức. Những trận hỗn chiến ác liệt nổ ra, nhiều khi đấu tay đôi. Trận chiến thường kéo dài cả đêm. Khi bình minh đến, những chiếc xe tải lại quay về, chở đầy thương binh và những người thiệt mạng, tiếng rên rỉ kêu gào của họ khiến ai nấy đều đau xé lòng. Cha Collet, tuyên úy của tiểu đoàn dành phần lớn thời gian bên giường những người hấp hối. Đó là ngày 31/1, có 60 người chết và 187 người bị thương.

Ngày 9/3. Những tin đồn lan ra mấy hôm nay đã trở nên rõ ràng hơn. Người ta nói rằng tại Hà Nội, Bộ chỉ huy tối cao Pháp đang chuẩn bị giải vây cho Nam Định. Lần này sẽ là một chiến dịch quy mô lớn. Có vẻ một đoàn quân tiếp viện hùng hậu đã lên đường.

Ngày 11/3. Từ xa, chúng tôi nghe tiếng rền vang của đại bác 155 ly và gần hơn, phía sông Hồng, tiếng nổ đặc trưng của pháo Bofos trang bị trên các tàu chiến vang lên. Tuy vậy, ngày chúng tôi được giải thoát vẫn chưa đến. Nhưng khi đêm xuống, quân Việt Minh vẫn im lặng không động tĩnh gì. Chỉ huy cử các đội đi tuần tra tứ phía. Việt Minh đã thận trọng rút lui trước khi đoàn quân từ Hà Nội tới gần. Không nghi ngờ gì nữa, việc giải vây Nam Định đã gần kề.

Ngày 12/3. Từ sáng sớm, dân thường và binh lính tập trung trước cổng chính nhà máy dệt. Không còn thấy Việt Minh. Không một phát súng nổ. Rồi trong đám bụi mịt mù, nhiều xe jeep xuất hiện, lao tới vèo vèo. Trên xe là một tá trinh sát và sĩ quan dẫn đầu đoàn quân. Chúng tôi đã được giải cứu sau 84 ngày bị vây hãm. Đoàn quân theo sau, khoảng 4.000 người tiến vào trong buổi sáng: xe tăng, xe bọc thép, xe kéo pháo 155 ly, xe ủi đất. Cùng với lính thủy đánh bộ, cả công binh cũng được cử đến sửa lại đường sá và cầu cống đã bị phá hủy. Kể từ khi tới vùng ven Nam Định, đoàn quân chưa phải hứng chịu phát súng nào. Quân Việt Minh đã đi mất. Thành phố tuyệt đối tĩnh lặng. Tuy nhiên, dân thường chỉ được phép rời khỏi nhà máy dệt vào cuối ngày, khi quân đội xác nhận không còn nguy hiểm.

Trước trận chiến, Nam Định là thành phố lớn thứ ba ở Bắc Kỳ, một trong những trung tâm công nghiệp đầu tiên của Đông Dương với 100.000 dân. Đến ngày 12/3/1947, thành phố chỉ còn lại đống tro tàn. Tất cả những gì thuộc về người Pháp hay do người Pháp xây dựng đều bị phá hủy. Mặt tiền ngân hàng bị 18 quả đạn pháo xuyên thủng, chỉ có 2 quả nổ. Những quả khác thì sao? Chúng tôi tìm thấy chúng vẫn chưa nổ, rải rác trên sàn, trong tường, một quả nằm ngay ngắn trên cây đàn piano lớn. Tất cả pháo lấy từ kho đạn cũ từ thời 1914 ấy đã mất ngòi nổ. Chúng tôi thật may mắn.

Ngày 20/3. Đoàn quân giải vòng vây rời Nam Định trở về Hà Nội, để lại một lực lượng đồn trú mạnh. Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn Bộ binh thuộc địa số 6 – đơn vị chiến đấu bảo vệ chúng tôi suốt cuộc vây hãm bất tận ấy cũng trở lại thủ phủ Bắc Kỳ…■

Lefèvre

Mai Vân Kỳ (dịch)

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN