Tài liệu giải mật: Báo cáo của nhóm Nhiệm vụ Bí mật của CIA tại Việt Nam năm 1954 và 1955

LTS: Sau đây là những trích đoạn từ báo cáo của Phái bộ Quân sự Sài Gòn, một nhóm của Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) do Edward Lansdale đứng đầu, ghi lại các hoạt động tình báo bí mật của nhóm tại Việt Nam trong giai đoạn 1954–1955, chủ yếu là các chiến dịch phá hoại ở miền Bắc Việt Nam trước, trong và sau khi Hiệp định Geneva được ký kết. Ngôn ngữ trong bài được giữ nguyên so với bản gốc để đảm bảo giá trị nghiên cứu và tham khảo.

1. Lời nói đầu

… Đây là bản tóm tắt ngắn gọn về một năm hoạt động của một nhóm tác chiến kiểu “chiến tranh lạnh”, do chính nhóm này viết tại hiện trường, từng chút một, trong những khoảnh khắc mà các thành viên có thể ghi lại được. Nhóm này được gọi là Phái bộ Quân sự Sài Gòn (Saigon Military Mission – SMM). Hiện trường ở đây là Việt Nam. Có những nhóm khác tại hiện trường này, của Mỹ, Pháp, Anh, Trung Quốc, Việt Nam, Việt Minh…

Phái bộ Quân sự Sài Gòn vào Việt Nam ngày 1/6/1954 khi Trưởng phái đoàn đặt chân đến đây. Tuy nhiên, đây là câu chuyện về một nhóm, và mãi đến tháng 8/1954, số lượng thành viên mới đủ để thành lập một nhóm. Vì vậy, đây chủ yếu là câu chuyện về năm đầu tiên của nhóm, từ tháng 8/1954 đến tháng 8/1955.

Hiệp định Genève về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được ký kết ngày 21/7/1954,  là một dấu mốc lịch sử trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam. Ảnh Tư liệu

Đó là một năm đầy mệt mỏi và khó hiểu, khi nhìn cận cảnh. Hiệp định Genève được ký kết ngày 21/7/1954 đã áp đặt những quy định hạn chế đối với tất cả các quan chức Mỹ, bao gồm cả Phái bộ Quân sự Sài Gòn. Một đối thủ chủ động và thông minh đã tận dụng triệt để các quyền hợp pháp để che giấu các hoạt động của mình khi thành lập các tổ chức “cài cắm lại” ở phía Nam vĩ tuyến 17 và nhanh chóng có được an ninh ở phía Bắc vĩ tuyến đó. Nền kinh tế và hệ thống thông tin liên lạc của đất nước [Việt Nam] đã bị tê liệt sau 8 năm chiến tranh công khai…

2. Sứ mệnh

Phái bộ Quân sự Sài Gòn (SMM) ra đời trong một cuộc họp chính sách tại Washington vào đầu năm 1954, khi Điện Biên Phủ vẫn đang chống cự trước sự bao vây của Việt Minh. SMM sẽ âm thầm tiến vào Việt Nam và hỗ trợ người Việt Nam, chứ không phải người Pháp, trong một cuộc chiến tranh phi truyền thống. Trong quá trình này, người Pháp sẽ được coi là đồng minh thân thiện ở mức nhiều nhất có thể.

Nhiệm vụ chung của nhóm là thực hiện các hoạt động bán quân sự chống lại kẻ thù và tiến hành chiến tranh tâm lý chính trị. Sau đó, sau Hội nghị Genève, phái bộ được điều chỉnh để chuẩn bị phương tiện thực hiện các hoạt động bán quân sự tại các khu vực Cộng sản kiểm soát thay vì tiến hành chiến tranh phi truyền thống…

3. Những điểm nổi bật trong một năm

a. Những ngày đầu tiên

Phái bộ Quân sự Sài Gòn (SMM) bắt đầu hoạt động vào ngày 1/6/1954, khi Đại tá Edward G. Lansdale thuộc Không quân Hoa Kỳ, Trưởng phái bộ, đến Sài Gòn với một chiếc hộp nhỏ đựng hồ sơ, quần áo và một chiếc máy đánh chữ đi mượn, nhờ chuyến bay SA-16 do Không đoàn 13 tại Căn cứ Không quân Clark sắp xếp cho ông. Trung tướng John O’Daniel và Đại biện Đại sứ quán Rob McClintock đã sắp xếp việc bổ nhiệm Lansdale làm Trợ lý Tùy viên Không quân, vì vào thời điểm đó, các sĩ quan Hoa Kỳ tại Nhóm cố vấn quân sự (MAAG) không được phép họp bàn với các sĩ quan Việt Nam. Đại sứ Heath [Đại sứ Mỹ ở miền Nam Việt Nam] đã đồng ý. Lansdale ở chung phòng với Tướng O’Daniel, sau đó chuyển đến một căn nhà nhỏ do MAAG thuê. Liên lạc bí mật với Washington được thực hiện thông qua trạm CIA tại Sài Gòn.

Tình hình Việt Nam ngày càng u ám. Điện Biên Phủ đã thất thủ. Người Pháp đang đầu hàng Việt Minh tại Genève. Đêm đầu tiên ở Sài Gòn, quân phá hoại của Việt Minh đã cho nổ tung các kho đạn dược lớn tại sân bay, làm rung chuyển Sài Gòn suốt đêm. Tướng O’Daniel và Đại biện McClintock nhất trí rằng đã đến lúc phải hành động tích cực. O’Daniel đã mở đường cho một cuộc khảo sát trực tiếp chóng vánh về tình hình trên khắp đất nước. McClintock mở đường cho các cuộc tiếp xúc với các nhà lãnh đạo chính trị Việt Nam. Danh tiếng của Tổng chỉ huy của chúng tôi từ Philippines đã đi trước ông. Hàng trăm mối quan hệ quen biết với người Việt Nam đã nhanh chóng được thiết lập.

Hợp tác chặt chẽ với Cơ quan thông tin Hoa Kỳ USIS, một chiến dịch chiến tranh tâm lý mới đã được vạch ra, nhắm vào chính quyền ở Hà Nội. Ngay sau đó, các khóa bồi dưỡng về chiến tranh tâm lý chiến đấu đã được tổ chức gấp. Các chiến dịch tung tin đồn được bổ sung vào chiến thuật và được thử nghiệm tại Hà Nội. Nhưng gần như đã quá muộn.

Chiến dịch tung tin đồn đầu tiên được dàn dựng cẩn thận với câu chuyện về một trung đoàn Cộng sản Trung Quốc ở Bắc Kỳ trả thù một ngôi làng Việt Minh có những cô gái bị người Trung Quốc hãm hiếp, nhắc nhớ đến hành vi của quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc vào năm 1945 và nỗi lo sợ của người Việt Nam về sự chiếm đóng của Trung Quốc dưới sự cai quản của Việt Minh; câu chuyện này sẽ do các binh lính người Việt thuộc Đội Chiến tranh Tâm lý Vũ trang tại Hà Nội đồn thổi lên. Những người lính này mặc thường phục, lặng lẽ nhận chỉ thị, lên đường làm nhiệm vụ và không trở về. Họ đã đào ngũ sang phe Việt Minh.

Tình hình chính trị rất hỗn loạn. Hoàng thân Bửu Lộc không còn đứng đầu chính phủ “Quốc gia Việt Nam”. Các bộ ngành gần như đóng cửa. Các nhà lãnh đạo bất ổn của các nhóm chính trị đang đề xuất một cuộc cách mạng, bao gồm cả các cuộc tấn công vũ trang vào quân Pháp. Đại tá Jean Carbonel của Quân đội Pháp đề xuất thiết lập một chế độ với những người Việt Nam (người Nùng và các sắc tộc khác) mà ông ta quen biết ở gần biên giới Trung Quốc và yêu cầu sự hỗ trợ của chúng tôi. Chúng tôi trả lời rằng đây là một quyết định chính sách cần được họp bàn bởi Quân đoàn viễn chinh Pháp và chính quyền Hoa Kỳ.

Ngày 1/7, Thiếu tá Lucien Conein đến Việt Nam, với tư cách là thành viên thứ hai của nhóm. Ông là một chuyên gia bán quân sự, được người Pháp biết đến rộng rãi vì đã giúp đỡ Pháp lập các nhóm kháng chiến ở Bắc Kỳ để chống quân Nhật năm 1945, là chiến binh du kích Mỹ duy nhất không phải là thành viên của Phái bộ Patti. Ông được phân công về MAAG để tạo vỏ bọc.

Edward Lansdale (thứ 3 từ phải sang) và Ngô Đình Diệm (phải). Ảnh: VOA

Ngô Đình Diệm đến vào ngày 7/7, và chỉ trong vài giờ đã tuyệt vọng khi quân Pháp rút khỏi các tỉnh lỵ Công giáo ở Bắc Kỳ là Phát Diệm và Nam Định. Dân quân Công giáo đổ về Hà Nội và Hải Phòng, lòng họ tràn ngập sự phẫn nộ trước sự bỏ rơi của Pháp. Hai sĩ quan SMM đã ngăn chặn một cuộc tấn công bằng lựu đạn được lên kế hoạch bởi các nữ dân quân nhằm vào binh lính Pháp đang canh gác một nhà kho; các cô gái nói rằng họ chưa được ăn gì trong suốt ba ngày; các thương gia Trung Quốc ở Hải Phòng đã được sắp xếp để cung cấp thức ăn cho họ. Các cuộc tấn công khác của dân quân đã bị ngăn chặn, bao gồm một cuộc tấn công vào một đơn vị pháo binh Pháp đang rút quân. Ngày 21/7, Hiệp định Genève được ký kết. Bắc Kỳ được trao cho những người Cộng sản. Những người chống Cộng đã tìm đến SMM để được giúp đỡ thành lập một phong trào kháng chiến và một số thỏa thuận ban đầu đã được thực hiện.

Cựu chiến hữu” Sài Gòn: Edward Lansdale

Sĩ quan Không quân Hoa Kỳ, 1947-1963; cố vấn chính trị, Nam Việt Nam, 1954-1956; trợ lý đặc biệt cho Đại sứ Henry Cabot Lodge, 1965-1968. Sinh ra tại De Troit, ngày 6/2/1908… học tại Đại học California, Los Angeles… vào cuối những năm 1940, là cố vấn cho Tổng thống Ramon Magsaysay của Philippines… đã giúp dập tắt cuộc nổi loạn Huk Balahap do Cộng sản lãnh đạo ở đó, đã phát triển khái niệm cơ bản rằng cách mạng Cộng sản bị phản kháng mạnh nhất bởi cách mạng dân chủ… đã đến Nam Việt Nam, với tư cách là đặc vụ của Cơ quan Tình báo Trung ương, năm 1954… đã giúp thiết lập chế độ Ngô Đình Diệm… được cho là hình mẫu cho “Đại tá Hillandale” trong tiểu thuyết “Người Mỹ xấu xí” và cho “Pyle” trong “Người Mỹ trầm lặng”… thúc đẩy việc thành lập lực lượng chống nổi dậy ở Việt Nam thay vì quân đội chính quy… được điều động trở lại Lầu Năm Góc, năm 1956… được cho là đã giúp phát triển Lực lượng Đặc nhiệm… nghỉ hưu năm 1963 với cấp bậc thiếu tướng… trở về Sài Gòn năm 1965, với tư cách là trợ lý đặc biệt về bình định dưới quyền của ông Lodge… các hoạt động được biết đến của ông bao gồm giám sát “tái thiết nông thôn”… làm nhiệm vụ liên lạc giữa đại sứ quán và người Việt Nam… nổi tiếng nhưng bí ẩn… được mô tả là không thể thay thế… kín tiếng về vai trò của mình… trở về Hoa Kỳ năm 1968… sống kín tiếng, vẫn viết tạp chí về Việt Nam và chống nổi dậy… sống ở Alexandria, Virginia.

b. Tháng 8/1954

Các bên đạt được thỏa thuận rằng số lượng tối đa quân nhân Hoa Kỳ tại Nhóm cố vấn quân sự (MAAG) sẽ được giữ nguyên ở mức hiện diện tại Việt Nam vào ngày ngừng bắn, theo các điều khoản của Hiệp định Genève. Tại Nam Việt Nam, hạn chót này là ngày 11/8. Điều này có nghĩa là SMM có thể chỉ có 2 thành viên hiện diện, trừ khi có thêm hành động nào đó. Tướng O’Daniel đã đồng ý bổ sung 10 người cho SMM dưới vỏ bọc MAAG, cộng với bất kỳ người nào trong hệ thống của Bộ quốc phòng đến trước hạn chót. Một lời kêu gọi hỗ trợ đã được gửi đi. 10 sĩ quan ở Hàn Quốc, Nhật Bản và Okinawa đã được chọn và được đưa gấp đến Việt Nam.

SMM được MAGG dành cho một ngôi nhà nhỏ. Các cuộc họp đã được tổ chức để đánh giá năng lực của các thành viên mới. Không ai có kinh nghiệm về chiến tranh chính trị – tâm lý. Hầu hết đều có kinh nghiệm trong các hoạt động tình báo bí mật và bán quân sự. Kế hoạch được lập nhanh chóng, vì thời gian ở miền Bắc đang cạn dần; Việt Minh đã bắt đầu nắm quyền kiểm soát bí mật Hà Nội, và các khu vực khác ở Bắc Kỳ vẫn do quân Pháp nắm giữ.

Thiếu tá Conein được giao trách nhiệm xây dựng một tổ chức bán quân sự ở miền Bắc, đã ở vị trí sẵn sàng khi Việt Minh tiếp quản…. Đội này… ngay lập tức được điều động ra Bắc, trong vỏ bọc nhân viên MAAG phụ trách vấn đề người tị nạn. Đội có trụ sở tại Hà Nội, với một chi nhánh ở Hải Phòng. Một trong các công việc “vỏ bọc” của đội này là giám sát dòng người tị nạn cho các chuyến không vận Hà Nội do Pháp tổ chức. Một ngày nọ, khi một chiếc CAT C-46 chất hàng xong, họ nhìn thấy một em bé đứng dưới mặt đất, phía sau cửa chất hàng. Họ hét lên bảo phi công đợi, bế đứa trẻ lên và đẩy cậu bé vào trong máy bay, sau đó máy bay nhanh chóng lăn bánh ra ngoài để cất cánh trong chuyến bay con thoi liên tục. Một người đàn ông và một phụ nữ Việt Nam chạy đến chỗ đội, hỏi họ đã làm gì với cậu con trai nhỏ của mình, họ chỉ đưa cậu bé đến để chào tạm biệt người thân. Các nhân viên trong đội buồn bã giải thích, cuối cùng họ thuyết phục được bố mẹ cậu bé đi vào Nam để đến với “Việt Nam Tự do”, đưa họ lên chuyến bay tiếp theo để đón con trai ở Sài Gòn…

Ảnh của Lucien E. Conein trong hồ sơ của OSS, khoảng năm 1945.

Một đội bán quân sự thứ hai được thành lập để tìm hiểu khả năng tổ chức kháng chiến chống lại các căn cứ tiền tuyến của Việt Minh ở miền Nam. Đội này gồm Trung tá Lục quân Raymond Wittmayer, Thiếu tá Lục quân Fred Allen, và Trung úy Lục quân Edward Williams. Williams là sĩ quan phản gián giàu kinh nghiệm duy nhất của chúng tôi và đảm nhận hai nhiệm vụ, bao gồm cả việc hợp tác với các nhóm chính trị cách mạng. Cuối cùng, Thiếu tá Allen đã có thể triển khai một nỗ lực bán quân sự của người Việt Nam ở Bắc Kỳ từ miền Nam, vượt qua được sự phong tỏa của Việt Minh ở Hải Phòng khi các đội của ông tiến vào, huấn luyện và trang bị cho nhiệm vụ được giao.

c. Tháng 9/1954

Các quan chức cấp cao từ Washington đã đến thăm Sài Gòn và trong các cuộc trò chuyện riêng tư, họ nói rằng những ước tính hiện tại đã dẫn đến kết luận rằng có thể sẽ phải từ bỏ Việt Nam như một tổn thất. Chúng tôi thừa nhận rằng triển vọng rất ảm đạm, nhưng vẫn lạc quan rằng vẫn còn cơ hội chiến đấu…

Nhóm SMM phía bắc dưới quyền Conein đã tổ chức một nhóm bán quân sự (sẽ ngụy trang bằng tên Việt Nam là Bình) thông qua đảng Đại Việt, một đảng phái chính trị trung thành với Bảo Đại. Nhóm này sẽ được Hoa Kỳ huấn luyện và hỗ trợ với tư cách là những người Việt Nam yêu nước, để cuối cùng nằm dưới sự kiểm soát của chính phủ khi chính phủ sẵn sàng cho các hoạt động như vậy. 13 “Bình” đã được bí mật rút lui qua cảng Hải Phòng, và được một tàu Hải quân Hoa Kỳ đưa đến khu vực huấn luyện.

Một nhóm bán quân sự khác cho các chiến dịch Bắc Kỳ đang được xây dựng tại Sài Gòn thông qua Tướng Nguyễn Văn Vỹ. Vào tháng 9, nhóm này bắt đầu hình thành nhanh chóng, và dự án được giao cho Thiếu tá Allen. (Chúng tôi sẽ đặt tên tiếng Việt cho nhóm này là Hảo)…

Người dân miền Bắc di cư vào Nam năm 1954. Ảnh: LIFE

Đến cuối tháng, người ta biết được rằng cơ sở in ấn lớn nhất miền Bắc dự định ở lại Hà Nội và hợp tác với Việt Minh. SMM đã tìm cách phá hủy các máy in hiện đại, nhưng các nhân viên an ninh Việt Minh đã vào nhà máy từ trước và chặn được âm mưu này. Chiến dịch này do một người Việt Nam yêu nước, chúng ta sẽ gọi là Triệu, chỉ huy. Đầu tháng, họ đã thiết kế một cuộc tấn công tâm lý “bẩn” ở Hà Nội: truyền đơn giả vờ do Việt Minh ký, hướng dẫn người Bắc Kỳ cách ứng xử khi Việt Minh tiếp quản khu vực Hà Nội vào đầu tháng 10, bao gồm các nội dung về tài sản, cải cách tiền tệ, và 3 ngày nghỉ lễ cho công nhân sau khi tiếp quản. Một ngày sau khi những tờ rơi này được phát tán, số người đăng ký tị nạn tăng gấp ba. Hai ngày sau, đồng tiền Việt Minh mất một nửa giá trị so với trước khi có tờ rơi. Việt Minh lên đài phát thanh để lên án các tờ rơi. Các tờ rơi trông chân thực đến nỗi ngay cả hầu hết cán bộ cấp dưới của Việt Minh cũng cho rằng những lời tố cáo trên radio là một trò bịp bợm của Pháp.

Cuộc tấn công tâm lý ở Hà Nội còn gây ra những hậu quả khác. “Bình” đã chiêu mộ được một quan chức cảnh sát cấp cao ở Hà Nội vào nhóm của mình, để thực hiện việc thả bất kỳ thành viên nào trong nhóm nếu bị bắt. Vào phút chót, vị quan chức này đã quyết định đích thân hỗ trợ việc phát tờ rơi. Cảnh sát phát hiện ra ông ta, đuổi theo xe của ông ta trên những con phố vắng vẻ của Hà Nội vào sáng sớm, cuối cùng nổ súng và bắt giữ ông ta. Ông ta là thành viên duy nhất trong nhóm bị bắt. Ông ta bị giam giữ với tư cách là điệp viên của Việt Minh.

d. Tháng 10/1954

Hà Nội được sơ tán vào ngày 9/10. Đội SMM phía Bắc rời đi cùng những người lính Pháp cuối cùng, bối rối trước những gì họ chứng kiến về hiệu quả kinh khủng của Việt Minh khi tiếp quản, về sự tương phản giữa cuộc hành quân im lặng của quân đội Việt Minh chiến thắng trong những đôi giày tennis với tiếng áo giáp loảng xoảng của quân đội Pháp được trang bị đầy đủ – chiến thuật và trang thiết bị phương Tây của họ đã thất bại trước chiến dịch kinh tế chính trị quân sự của những người Cộng sản.

Nhóm phía Bắc đã dành những ngày cuối cùng ở Hà Nội để “đầu độc” nguồn cung cấp dầu của công ty xe buýt, nhằm phá hoại dần dần các động cơ trên xe buýt; thực hiện các hành động đầu tiên để phá hoại đường sắt một cách từ từ (việc này đòi hỏi sự phối hợp với một nhóm kỹ thuật đặc biệt của CIA tại Nhật Bản); và viết các ghi chú chi tiết về những mục tiêu tiềm năng cho các hoạt động bán quân sự trong tương lai (việc Hoa Kỳ tuân thủ Hiệp định Genève đã không cho phép SMM thực hiện hoạt động phá hoại tích cực mà họ mong muốn nhằm vào nhà máy điện, nhà máy nước, bến cảng và các cây cầu). Nhóm đã gặp phải một khoảnh khắc tồi tệ khi làm bẩn dầu của công ty xe buýt. Họ phải làm việc nhanh chóng vào ban đêm, trong một phòng chứa kín. Hơi bốc ra từ chất gây ô nhiễm dầu gần như khiến họ bất tỉnh. Chóng mặt và đầu gối run rẩy, họ lấy khăn tay che mặt và hoàn thành công việc.

Những tên lính Pháp cuối cùng rút qua cầu Long Biên để xuống Hải Phòng chiều 9/10/1954. Ảnh tư liệu TTXVN
Người dân đứng kín hai bên đường Kim Mã chào đón Đại đoàn 308 tiến vào tiếp quản Thủ đô ngày 10/10/1954. Ảnh tư liệu TTXVN

Trong khi đó, các tàu của Ba Lan và Nga đã đến miền Nam để vận chuyển các thành viên Việt Minh ở miền Nam ra Bắc theo Hiệp định Genève. Điều này tạo cơ hội cho một cuộc tấn công tâm lý đen khác. Một tờ rơi được “Bình” biên soạn, giả vờ của Ủy ban Kháng chiến Việt Minh. Một trong các nội dung của tờ rơi là cam đoan với Việt Minh rằng họ sẽ được bảo vệ an toàn dưới boong tàu khỏi các cuộc tấn công bằng máy bay và tàu ngầm của đế quốc, và yêu cầu mang theo quần áo ấm; “quần áo ấm” sẽ được kết hợp với một chiến dịch đồn thổi rằng Việt Minh đang được đưa sang Trung Quốc làm công nhân đường sắt.

SMM đã in và phân phát tờ rơi bằng cách cho những người lính mặc thường phục xâm nhập vào các khu vực Việt Minh ở miền Nam bằng cách đi bộ. Các báo cáo tình báo và các báo cáo sau đó tiết lộ rằng các ủy ban đại biểu làng xã đã phàn nàn về việc “trục xuất” ra miền Bắc, sau khi tờ rơi được phân phát…

e. Tháng 11/1954

Tướng Lawton Collins đến làm Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn vào ngày 8/11. Trong cuộc họp báo đầu tiên, Collins đã nói rõ rằng Hoa Kỳ đang ủng hộ Tổng thống Diệm.

Một phần của nhóm SMM đã tham gia hỗ trợ chiến dịch “cứu Việt Nam” đầy nhiệt huyết do Collins thúc đẩy. Một số thành viên SMM phân tán khắp Thái Bình Dương, tháp tùng người Việt Nam tham gia huấn luyện bí mật, thu thập và vận chuyển hàng tiếp tế để tuồn lậu vào miền Bắc Việt Nam và cất giấu tại đó. Tại Philippines, nhiều sự hỗ trợ đang được thiết lập để giúp SMM đẩy nhanh dòng chảy hàng tiếp tế, cùng việc thành lập một công ty phi lợi nhuận của Philippines do Tổng thống Magsaysay hậu thuẫn, chuyên cung cấp những người Philippines có kinh nghiệm chiến đấu chống lại lực lượng Cộng sản Huks để hỗ trợ Việt Nam (hoặc bất cứ nơi nào khác)…

Ngày 23/11, 21 điệp viên Việt Nam được tuyển chọn và 2 đầu bếp thuộc nhóm bán quân sự “Hảo” của chúng tôi đã được đưa lên một tàu Hải quân trên sông Sài Gòn, ngay giữa ban ngày. Họ cải trang thành cu li, hòa vào dòng người cu li và người tị nạn lên xuống tàu, rồi lần lượt biến mất. Chiến dịch được lên kế hoạch và thực hiện một cách xuất sắc, các điệp viên được đón từ các điểm tập kết kín đáo trên khắp thành phố. Con tàu đưa các điệp viên “Hảo”, theo từng nhóm riêng biệt, đến một địa điểm ở nước ngoài, giai đoạn đầu tiên trong cuộc di chuyển đến một khu vực huấn luyện bí mật.

f. Tháng 12/1954

… Các cuộc thảo luận giữa Hoa Kỳ, Việt Nam [Quốc gia Việt Nam] và Pháp đã đạt đến điểm mà có lẽ một nhiệm vụ huấn luyện quân sự sử dụng các sĩ quan Hoa Kỳ sắp sửa được thực hiện. Tướng O’Daniel đã có một nhóm lập kế hoạch Mỹ-Pháp làm việc về vấn đề này. Một tài liệu mà họ đang soạn thảo là kế hoạch bình định các vùng Việt Minh và vùng bất đồng chính kiến; tài liệu này đã được chuyển cho SMM để hỗ trợ soạn thảo. SMM đã viết phần lớn nội dung của tài liệu, thay đổi khái niệm cũ từ sự kiểm soát cứng nhắc của cảnh sát đối với tất cả các khu vực sang một số khái niệm của chúng tôi về việc thu phục dân chúng và phân loại các khu vực theo mức độ rắc rối ở mỗi khu vực, mức độ kiểm soát cần thiết và xác định trách nhiệm giữa các cơ quan dân sự và quân sự. Với một vài thay đổi, sắc lệnh này đã được Ngô Đình Diệm ban hành vào ngày 31/12 với tên gọi Chỉ thị Hành động An ninh Quốc gia (Bình định)…

Vẫn còn nhiều bất ổn ở Việt Nam, đặc biệt là trong các nhóm chính trị chống Cộng không nằm trong chính phủ. Các sĩ quan của SMM đã được một số nhóm như vậy liên lạc, những người này cảm thấy rằng họ “sẽ phải tự sát vào năm 1956” (cuộc trưng cầu dân ý năm 1956 đã được hứa hẹn trong Hiệp định Genève năm 1954), khi Việt Minh chắc chắn sẽ tiếp quản chính quyền yếu kém hiện nay. Một nhóm nông dân và dân quân ở miền Nam đã được SMM thuyết phục không di cư sang Madagascar và ở lại trang trại của họ. Một số nhóm này đã yêu cầu SMM giúp đỡ đào tạo nhân sự cho chiến tranh du kích nếu Việt Minh giành chiến thắng. Những người như Bộ trưởng Quốc phòng [Quốc gia Việt Nam] lúc bấy giờ và Trịnh Minh Thế nằm trong số những người trung thành với chính phủ cũng đã yêu cầu sự giúp đỡ như vậy. Hoa Kỳ quyết định rằng một chương trình huấn luyện du kích cơ bản hơn có thể được thực hiện cho các nhóm như vậy, thay vì chương trình đã có sẵn tại địa điểm huấn luyện bí mật mà chúng tôi đã cử các nhóm Bình và Hảo đến. Các kế hoạch đã được lập ra với đầu Philippines để giải quyết vấn đề này. Hoa Kỳ đã hỗ trợ việc dựng lên một trại huấn luyện nhỏ tại thung lũng ẩn trong khu Căn cứ Không quân Clark.

g. Tháng 1/1955

Từ lâu, Việt Minh đã tiếp thu tư tưởng của những người Cộng sản Trung Quốc, coi nhân dân là nước, quân đội là cá. Mối quan hệ của Việt Minh với quần chúng nhân dân trong suốt cuộc chiến đều rất mẫu mực, ngoại trừ một vài ngoại lệ; ngược lại, Quân đội “Quốc gia Việt Nam” giống như quá nhiều quân đội châu Á khác, rất giỏi trong việc ép buộc dân chúng phải nuôi họ ăn uống, cung cấp các cô gái trẻ cho họ.

Sau này, chúng tôi được biết rằng vài tháng trước khi ký kết Hiệp định Genève, Việt Minh đã lên kế hoạch hành động trong giai đoạn hậu Genève; Quân đội “Quốc gia Việt Nam” sẽ là mục tiêu chính cho các nỗ lực phá hoại, được Ủy ban Trung ương ưu tiên hàng đầu, và khoảng 100 cán bộ cấp cao đã được đào tạo lại cho các hoạt động này và được đưa vào tổ chức [chữ không đọc được] để làm công việc này, vốn đã khởi động từ trước khi Hiệp định được ký kết…

Người yêu nước mà chúng tôi gọi là Triệu Đinh đã làm ra một cuốn lịch vạn sự để bán rộng rãi, đặc biệt là ở các thành phố và thị trấn phía Bắc mà chúng tôi vẫn có thể tiếp cận. Các nhà chiêm tinh Việt Nam nổi tiếng đã được thuê để viết những dự đoán về thảm họa sắp xảy ra cho một số nhà lãnh đạo và hoạt động của Việt Minh, và dự đoán sự thống nhất ở miền Nam. Việc này được thực hiện dựa trên khái niệm của chúng tôi về việc sử dụng chiêm tinh học cho chiến tranh tâm lý ở Đông Nam Á. Các bản sao của cuốn lịch vạn sự được vận chuyển bằng đường hàng không đến Hải Phòng và sau đó được tuồn vào lãnh thổ của Việt Minh.

Triệu Đinh cũng viết một loạt bài luận về lòng yêu nước của người Việt Nam chống lại Việt Minh cộng sản. Những bài viết này được lưu hành trong các nhóm có ảnh hưởng ở Việt Nam, được đăng trên trang nhất của tờ báo hàng ngày hàng đầu ở Sài Gòn. Lượng phát hành tăng lên khi những bài luận này được xuất bản. Nhà xuất bản được SMM biết đến với cái tên “The Dragon Lady” và là một cô gái Việt Nam xinh đẹp, từng là tình nhân của một thường dân Pháp chống Mỹ. Bất chấp những lời lẽ chống Mỹ của bạn trai cô, chúng tôi đã giúp cô giữ cho tờ báo của mình không bị chính phủ đóng cửa… và cô thấy việc nghe theo lời khuyên của chúng tôi về nội dung của tờ báo đã giúp cô thu về được nhiều tiền.

Vũ khí và trang thiết bị cho nhóm bán quân sự “Bình” được cất giấu ở miền Bắc, tại những khu vực vẫn chưa bị Việt Minh kiểm soát. Việc di chuyển nhân sự được che đậy nhờ dòng người tị nạn. Hải Phòng gợi nhớ đến những ngày đầu tiên của chúng tôi khi nơi đây ngập tràn những người không nơi nương tựa. Nơi ở và lương thực khan hiếm, căng thẳng thần kinh gia tăng. Đó là một thời kỳ khó khăn đối với nhóm miền Bắc của chúng tôi.

Công an Hà Nội khai quật hầm chôn giấu điện đài của tổ chức gián điệp Pháp tại phố Đội Cấn, Hà Nội năm 1954. Nguồn: Bảo tàng Công an Nhân dân

Những chuyến hàng tiếp tế đầu tiên cho nhóm bán quân sự “Hảo” bắt đầu đến Sài Gòn. Những chuyến hàng này, cùng với những chuyến hàng trước đó cho nhóm “Bình”, là một phần trong nỗ lực vận chuyển lậu bằng đường hàng không rất hiệu quả của Không quân Hoa Kỳ, với sự hỗ trợ của CIA và nhân viên Không quân ở cả Okinawa và Philippines.

Đến ngày 31/1, toàn bộ trang thiết bị tác chiến của nhóm bán quân sự “Bình” đã được chuyển từ Sài Gòn ra Hải Phòng, và nhóm SMM phía Bắc đã cất giữ chúng tại các địa điểm tác chiến.

… Thiếu tá Conein đã tóm tắt tình hình cho các thành viên của đội bán quân sự “Bình” và bắt đầu cho họ xâm nhập vào miền Bắc từng người một. Cuộc xâm nhập được thực hiện theo từng giai đoạn cẩn trọng trong khoảng thời gian 30 ngày, một chiến dịch thành công. Các “Bình” đã trở thành những công dân bình thường, bề ngoài vẫn thực hiện các hoạt động dân sự hàng ngày.

Chúng tôi đã tuồn vào Việt Nam khoảng 8,5 tấn hàng tiếp tế cho nhóm bán quân sự “Hảo”, bao gồm 14 máy bộ đàm, 300 súng ngắn, 90.000 viên đạn carbine, 50 khẩu súng lục, 10.000 viên đạn súng lục và 300 pound thuốc nổ. 2,5 tấn đã được chuyển giao cho các điệp viên “Hảo” ở Bắc Kỳ, trong khi số còn lại được SMM cất giấu dọc theo Sông Hồng, với sự hỗ trợ của Hải quân Hoa Kỳ…

j. Tháng 4/1955

… Đội bán quân sự “Hảo” đã hoàn thành khóa huấn luyện tại địa điểm huấn luyện bí mật và được Không quân Hoa Kỳ đưa đến một địa điểm tạm thời ở Philippines. Đến giữa tháng 4, họ được Hải quân đưa đến Hải Phòng, rồi được đưa dần vào bờ. Trong khi đó, vũ khí và các thiết bị khác, bao gồm cả thuốc nổ, đang được vận chuyển bằng đường hàng không vào Sài Gòn qua tuyến đường lậu của chúng tôi, đang được lực lượng Hải quân xử lý người tị nạn chuẩn bị vận chuyển ra Bắc.

Việt Minh chiếm Hải Phòng vào ngày 16/5. Các đội “Bình” và “Hảo” phía Bắc của chúng tôi đã vào vị trí, được trang bị đầy đủ. Phải mất rất nhiều công sức mới có thể hoàn thành đúng hạn chót theo Hiệp định Genève, từ việc tìm kiếm, tuyển chọn, sàng lọc, huấn luyện, xâm nhập, trang bị cho người của hai đội này và đưa họ vào vị trí, sẵn sàng cho các hành động cần thiết chống lại kẻ thù. Làm công khai vốn đã rất khó khăn, nhưng những việc này còn phải được giữ bí mật với Việt Minh, với Ủy ban Quốc tế gồm những người Pháp, Ba Lan và Ấn Độ đầy hoài nghi, và thậm chí cả những người Việt Nam thân thiện. Việc di chuyển nhân sự và vật tư phải diễn ra trên hàng ngàn dặm…■

Minh Thư (dịch)

(Nguồn: báo New York Times, ngày 5/7/1971)

BÌNH LUẬN

BÀI VIẾT LIÊN QUAN