
Sau 10 năm trong quân ngũ, Thượng sĩ Donald Duncan đã quyết định rời bỏ Quân đội Hoa Kỳ vào tháng 9/1965, chỉ vài ngày sau khi từ Việt Nam trở về, và trở thành một trong những người tiên phong phản đối cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Sau khi tận mắt chứng kiến tất cả những sự tàn bạo của cuộc chiến, sự can thiệp vô nghĩa của Mỹ vào Việt Nam, và nhất là sự lừa dối của chính quyền Mỹ đối với người dân, Duncan đã đánh mất hoàn toàn niềm tin vào những gì mình từng được dạy để tin tưởng, và không còn muốn phục vụ trong một guồng máy đầy rẫy dối trá. Tạp chí Phương Đông xin trích giới thiệu tới bạn đọc bài hồi ký “Tôi từ bỏ” (I quit) của Duncan, được đăng trên Tạp chí Ramparts số tháng 2/1966 (Ngôn từ trong bài được giữ nguyên so với bản gốc để bạn đọc nghiên cứu, tham khảo).
Khi được tuyển vào quân đội 10 năm trước, tôi là một người chống cộng sản hiếu chiến. Giống như hầu hết người Mỹ, tôi không thể tưởng tượng được ai đó lại chọn chủ nghĩa cộng sản thay vì dân chủ. Tôi cho rằng mức độ ác cảm sâu sắc của tôi đối với hệ tư tưởng này một phần là do tôi là người Công giáo La Mã, một phần do các câu chuyện trên truyền thông về chủ nghĩa cộng sản, và một phần là do việc cha dượng tôi sinh ra ở Budapest, Hungary. Mặc dù ông đã đến Hoa Kỳ từ khi còn trẻ, nhưng hầu hết gia đình ông vẫn ở lại châu Âu. Thỉnh thoảng, tôi được nghe kể về nỗi kinh hoàng của cuộc sống dưới chế độ cộng sản. Ngay sau khi hoàn thành khóa huấn luyện cơ bản, tôi được gửi đến Đức. Tôi đã ở đó vào thời điểm Liên Xô đàn áp cuộc nổi dậy của người Hungary. Mọi thứ tôi từng nghe về chủ nghĩa cộng sản đều đã được xác minh. Giống như những người lính đồng đội của mình, tôi cảm thấy thất vọng và bị lừa dối khi Hoa Kỳ không giúp đỡ người Hungary. Tôi giận dữ theo dõi những lực lượng tàn bạo được sử dụng để chống lại những người dân chỉ được trang bị gậy gộc, các vũ khí lấy trộm được, và một khát khao độc lập.
Trong thời gian phục vụ ở Đức, tôi đã tình cờ gặp Lực lượng Đặc nhiệm Lục quân Hoa Kỳ. Ấn tượng trước sự tận tụy và nhiệt huyết của họ, tôi quyết định tình nguyện làm nhiệm vụ với nhóm này và đến năm 1959, tôi đã được nhận vào Lực lượng Đặc nhiệm và được đi đào tạo ở Căn cứ Fort Bragg. […]
Ban đầu, mục đích của việc huấn luyện là để các đội của Mỹ tổ chức các phong trào du kích ở nước ngoài. Trọng tâm được đặt vào thực tế là du kích không thể bắt tù binh. Chúng tôi liên tục được dặn rằng: “Các anh không cần phải tự mình giết họ – hãy để người bản xứ của các anh làm điều đó”. Sau này, tôi sẽ chứng kiến việc giao nộp tù binh cho Quân đội Việt Nam Cộng hòa để “thẩm vấn” và những hành động tàn bạo xảy ra sau đó.
Chủ đề chống cộng được đan xen trong suốt quá trình đào tạo. Tài liệu đọc thêm được khuyến nghị, hóa ra luôn là những cuốn sách về “tẩy não” và những câu chuyện tàn bạo – cuộc sống dưới chế độ cộng sản. Kẻ thù là kẻ thù. Không còn nghi ngờ gì nữa, kẻ thù là chủ nghĩa cộng sản và các quốc gia cộng sản. Chưa bao giờ có gợi ý nào là Lực lượng Đặc nhiệm sẽ tiến hành chiến tranh du kích chống lại chính phủ ở một quốc gia do phát xít kiểm soát. […]
Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là ở Sài Gòn với tư cách là Chuyên gia khu vực cho Khu vực chiến thuật của Quân đoàn III và IV. Và quá trình đào tạo của tôi bắt đầu ở đó. Các sĩ quan và hạ sĩ quan đều nhất loạt coi thường người Việt Nam. Họ liên tục chê bai các quan chức Sài Gòn, chính quyền Sài Gòn, quân đội VNCH, LLĐB (Lực lượng đặc biệt của VNCH) và người dân Việt Nam. Chính quyền thối nát, quan chức tham nhũng, quân đội hèn nhát, LLĐB thì cả ba, và dân thường là một tên trộm ngu ngốc. Tôi chợt nghĩ rằng nếu những người ở “phe của chúng ta” là tất cả những thứ này, tại sao chúng ta lại ủng hộ họ và chi 1,5 triệu đô la một ngày ở đất nước họ? Câu trả lời luôn luôn giống nhau: “Họ là những người chống cộng.” Điều này được cho là giải thích mọi thứ.
Kết quả là những quan sát ban đầu của tôi về mọi thứ và mọi con người ở Việt Nam đều bị bóp méo. Tôi gần như đã rơi vào thói quen, hoặc sự lười biếng về mặt tinh thần, khi đánh giá Việt Nam không dựa trên những gì tôi thấy và nghe, mà dựa trên những gì những người Mỹ thiên vị khác nói với tôi. Khi bạn thấy điều gì đó trái ngược, luôn có một người đồng hương sẵn sàng diễn giải ý nghĩa của nó, và sẽ theo hướng không có lợi cho người Việt Nam. Điều này một phần là do loại người Việt Nam mà người Mỹ thường gặp, cùng với những định kiến điển hình của người Mỹ. Trong giờ làm việc, lính Mỹ chủ yếu giao dịch với quân đội VNCH. Nhiều (hoặc hầu hết) sĩ quan cấp cao VNCH có được địa vị của họ nhờ gia thế, như một phần thưởng cho sự hỗ trợ chính trị, và nhờ tiền bạc. Hầu hết các quan chức dân sự cấp cao cũng có được chức vụ theo cách tương tự. Họ sử dụng chức vụ của mình chủ yếu như một phương tiện để tăng thêm của cải cá nhân. Hầu như không có mối quan hệ xã hội nào giữa lính Mỹ và binh lính VNCH.
Hầu hết những tiếp xúc giữa người Mỹ và thường dân Việt Nam chỉ giới hạn ở tài xế taxi, người lao động, thư ký, nhà thầu và gái quán bar. Tất cả những người này đều có một điểm chung: họ phụ thuộc vào người Mỹ để kiếm sống. Ba nhóm người cuối cùng còn có một điểm chung khác: họ sẽ nói với người Mỹ bất cứ điều gì người Mỹ muốn nghe, miễn là có tiền. Cả nhóm dân sự lẫn quân sự mà người Mỹ thường tiếp xúc đều không đại diện cho người dân Việt Nam.
Sau nhiệm vụ đầu tiên kéo dài hai tháng rưỡi ở Sài Gòn, tôi tình nguyện tham gia một chương trình mới có tên là Dự án Delta. Đây là một dự án mật, trong đó một số thành viên được lựa chọn của Lực lượng Đặc nhiệm sẽ huấn luyện và tổ chức các nhóm nhỏ để xâm nhập vào Lào với mục đích chính là cố gắng tìm ra đường mòn Hồ Chí Minh và thu thập thông tin về giao thông, quân đội, vũ khí… Đây hoàn toàn là một nhiệm vụ tình báo trinh sát, nhưng khả năng thành lập các căn cứ du kích sau đó đã được cân nhắc. Một số người nói về việc tiến vào Bắc Việt, nhưng không phải bằng Dự án Delta. Một đơn vị khác, Nhóm Hoạt động Đặc biệt (SOG) đang làm điều đó rồi. SOG kết hợp nhiều lực lượng: CIA, Không quân, Hải quân, Lục quân và các nhân sự Đặc nhiệm biệt lập đều tham gia.
Dự án Delta được Mỹ chi trả: tiền ăn, chỗ ở và quần áo cho người Việt Nam. Bia miễn phí được cung cấp và một số tiền cố định được thỏa thuận, một số sẽ được trả sau khi hoàn thành khóa đào tạo và nhiều hơn nữa sẽ được trả khi các đội trở về.
Ban đầu, người ta nghĩ rằng các đội sẽ bao gồm bốn người Việt Nam và hai người Mỹ. Mặc dù nhiều người chúng tôi đang đào tạo có năng khiếu bẩm sinh trong lĩnh vực hoạt động này, nhưng lại thiếu sự lãnh đạo mạnh mẽ và hiệu quả. Những người liên quan mật thiết đến chương trình đào tạo liên tục nhấn mạnh với Lầu Năm Góc và Đại sứ rằng, nếu muốn đạt được bất kỳ mức độ thành công nào thì bắt buộc người Mỹ phải đi cùng các đội.
Khi vào phút chót nhận được câu trả lời “Không đi” rất kiên quyết cho nhóm nhân sự Mỹ, chúng tôi đã hỏi “Tại sao?” Câu trả lời là vì đó là năm bầu cử [1964] và sẽ rất hổ thẹn nếu người Mỹ bị bắt ở Lào. Bất cứ điều gì có bản chất như vậy sẽ phải đợi đến sau cuộc bầu cử. Phản ứng đối với quyết định này là sự tức giận, thất vọng và ghê tởm.
Và giống như mọi người, tôi đã thất vọng. Điều này khiến tôi thực sự bắt đầu đặt câu hỏi về vai trò của chúng tôi ở Việt Nam. Tôi đột nhiên nhận ra rằng việc từ chối cho người Mỹ tham gia không dựa trên việc chúng tôi đến Lào là đúng hay sai. Mối quan tâm chính là sự hổ thẹn có thể xảy ra đối với Tổng thống Johnson trong chiến dịch tranh cử. Để đạt được mục đích này, chúng tôi đã cử người đi thực hiện một nhiệm vụ có rất ít hoặc không có cơ hội thành công. Rõ ràng là chúng tôi không quan tâm đến lợi ích của người Việt Nam, mà chỉ quan tâm đến cách chúng tôi có thể thúc đẩy tốt nhất lợi ích của chính mình. Chúng tôi đã cử đi 40 người, trong đó chỉ có 6 người trở về.
Khi dự án chuyển sang hoạt động trong nước, người Mỹ đã thả bom khắp các khu vực do Việt Cộng chiếm đóng ở Nam Việt Nam. Một chuyến đi như vậy là vào Chiến khu D ở phía bắc Đồng Xoài, gần đồn điền Michelin. Không có nhiệm vụ điển hình nào cả. Mỗi nhiệm vụ lại khác nhau. Nhưng nhiệm vụ này đã tiết lộ một số điều đáng kinh ngạc. Sau đó, tôi đã báo cáo với Bộ trưởng Quốc phòng McNamara và Tướng Westmoreland về giá trị quân sự hạn chế của vụ ném bom, như đã chứng kiến trong nhiệm vụ này.
Tôi đã chứng kiến tác động của vụ ném bom ở cự ly gần. Những quả bom này sẽ rơi xuống và bay khoảng hơn 10 mét và xé toạc rất nhiều tán lá trên cây, nhưng chỉ có thế. Trừ khi bạn thả những thứ này vào túi quần của ai đó, chứ chúng chẳng có tác dụng gì. Họ đã ném bom khu vực đó trong 28 giờ. Và khá nực cười vì khi tôi ra ngoài, người ta ước tính rằng họ đã giết khoảng 250 người Việt Cộng vào ngày đầu tiên. Họ hỏi tôi rằng tôi nghĩ có bao nhiêu Việt Cộng đã bị giết và tôi nói có thể là 6; vụ đánh bom không có ý nghĩa quân sự thực sự. Nó chỉ có hiệu quả nếu nhắm vào các mục tiêu tập trung như làng mạc.
Một trong những tiên đề đầu tiên mà người ta được học về chiến tranh phi truyền thống là không có phong trào nổi dậy hay du kích nào có thể tồn tại nếu không có sự ủng hộ của người dân. Trong khi làm công việc nghiên cứu với tư cách một chuyên gia khu vực, tôi thấy rằng ở từng tỉnh, du kích Việt Cộng khởi đầu chỉ là những đội nhỏ. Bây giờ họ có quân số cấp tiểu đoàn và trung đoàn. Trước khi tôi rời đi, Việt Cộng có thể đưa quân ra chiến trường với quân số cấp sư đoàn ở hầu hết các tỉnh. Sự phát triển như vậy chắc chắn là bất khả thi nếu không có sự ủng hộ của người dân.
Chính phủ của chúng tôi và chính quyền Sài Gòn vẫn nói với chúng tôi rằng đại đa số người dân Nam Việt Nam phản đối Việt Cộng. Khi tôi đặt câu hỏi về sự mâu thuẫn này, tôi luôn được trả lời rằng người dân chỉ giúp Việt Cộng vì sợ hãi. Người ta cho rằng Việt Cộng đã khủng bố người dân bằng cách ám sát và tra tấn. Lập luận này cũng đi ngược lại lý thuyết. Lực lượng đặc nhiệm được dạy rằng chỉ có thể đạt được sự hỗ trợ đáng tin cậy thông qua tình bạn và niềm tin. Lịch sử cũng phủ nhận lập luận “khủng bố”. Người dân sợ hãi và căm ghét người Pháp, và họ nổi dậy chống lại người Pháp. Rõ ràng là một phong trào thiểu số không thể theo dõi sát sao được một nhóm đa số thù địch. Nam Việt Nam là một quốc gia tương đối nhỏ, rải rác hàng ngàn ngôi làng nhỏ. Trong khu vực rất hạn chế này, các đại đội và tiểu đoàn Việt Cộng có thể cơ động và sống ngay dưới mũi của quân đội chính phủ; nhưng người dân không phản bội những phong trào này, mặc dù việc chỉ điểm là tương đối đơn giản. Mặt khác, các cuộc di chuyển quân đội của chính phủ VNCH luôn được báo cáo [cho Việt Cộng]. Trong một hành động chống Việt Cộng, hy vọng duy nhất để gây bất ngờ là chính phủ phải di chuyển quân đội bằng trực thăng. Nhưng ngay cả điều này cũng không thể đảm bảo. Tướng VNCH Nguyễn Khánh, khi vẫn là người đứng đầu chính quyền Sài Gòn, đã thừa nhận rằng các điệp viên và những người ủng hộ Việt Cộng có mặt ở khắp mọi nơi – thậm chí trong các hội đồng nội bộ – khi ông ta đưa ra tuyên bố: “Bất kỳ hoạt động nào để quá 4 tiếng từ lúc lên ý tưởng đến lúc thực hiện sẽ đều thất bại”. Nguyễn Khánh đưa ra những nhận xét này trong những ngày cuối cùng của chế độ của ông ta, ngay sau khi một chiến dịch do chính ông ta chỉ đạo ở phía bắc Sài Gòn kết thúc trong thảm họa.
Để ủng hộ cho lý thuyết khủng bố, họ kể với tôi về các vụ giết hại trưởng làng và gia đình của họ. Những người nhanh chóng chỉ ra những vụ giết người này đã bỏ qua một số sự thật. Những người đứng đầu tỉnh, huyện, làng và ấp đều được bổ nhiệm chứ không phải được bầu. Thường thì các viên chức nhỏ thậm chí không phải là người trong vùng, mà là những người bên ngoài được giao chức vụ vì những ân huệ chính trị. Những người của chính vùng đó bị coi là phản bội vì đã chống lại chính quê hương mình khi hợp tác với Sài Gòn. Những người du kích hoặc đảng viên từng giết những kẻ phản bội trong Thế chiến II được phim ảnh Mỹ ca ngợi như những người hùng. Những ai coi việc Việt Cộng tiêu diệt những kẻ này là khủng bố, và coi đó là cái cớ để biện minh cho việc chúng ta phải đánh bại họ, không hề nhận ra rằng quân đội của chính chúng ta coi những hành động như vậy là chiến lược tốt khi tình thế đảo ngược. Khi quân đội Mỹ dạy Lực lượng Đặc nhiệm cách thiết lập chiến tranh du kích tại một nước thù địch, việc trừ khử các quan chức không được lòng dân được coi là một phương pháp để kết bạn với dân chúng; các đội ám sát đặc biệt nên được thành lập cho mục đích này.
Tôi biết vài trường hợp các sĩ quan Lực lượng Đặc nhiệm đề xuất nên giết tù nhân Việt Cộng. Trong một trường hợp mà tôi tham gia, chúng tôi đã bắt tù nhân ở thung lũng quanh An Khê. Chúng tôi không muốn có tù nhân nhưng họ đã tự rơi vào tay chúng tôi. Dự kiến chúng tôi phải ở lại khu vực đó thêm 4 ngày nữa, và chỉ có 8 người chúng tôi và 4 người bọn họ, và chúng tôi không biết phải làm gì với họ. Bạn không thể mang họ theo. Thực phẩm có hạn, và qua cách liên lạc giữa chúng tôi với căn cứ, bạn biết họ muốn bạn làm gì – loại bỏ họ. Tôi đã không làm vậy, và khi tôi trở lại căn cứ hoạt động, một Thiếu tá đã nói với tôi: “Chúng tôi gần như đã bảo cậu ngay qua điện thoại là giết họ đi”. Tôi nói rằng tôi mừng là ông ấy đã không làm vậy, bởi vì sẽ rất xấu hổ nếu từ chối làm điều đó. Tôi biết rõ là mình sẽ không giết họ. Trong trận chiến thì đó là một chuyện, nhưng với những người bị trói tay thì lại là chuyện khác. Và tôi không thể bắn họ vì sẽ gây ra tiếng động. Nó phải là một việc rất riêng tư, như kiểu đâm dao vào họ chẳng hạn. Viên Thiếu tá nói, “Ồ, anh không cần phải làm việc đó; tất cả những gì anh cần làm là giao họ cho người Việt Nam”. Tất nhiên, điều này được cho là để giải thoát bạn khỏi mọi trách nhiệm. Đây là thái độ chung. Nó thực sự là đạo đức giả. Rất ít người trong Lực lượng Đặc nhiệm có bất kỳ sự day dứt nào về điều này. Chết tiệt, rất ít.
Dần dần, khi tất cả những sự kiện này tác động đến tôi, tôi phải chấp nhận sự thật rằng, dù là cộng sản hay không, thì đại đa số mọi người đều ủng hộ Việt Cộng và chống Sài Gòn. Tôi cũng phải nhận ra rằng lập trường “Chúng tôi ở Việt Nam vì chúng tôi đồng cảm với nguyện vọng và mong muốn của người dân Việt Nam” là một lời nói dối. Nếu đây là một sự dối trá, thì còn bao nhiêu sự dối trá khác nữa?
Tôi cho rằng một trong những điều khiến tôi bận tâm ngay từ đầu ở Việt Nam là sự lên án Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong vai trò một lực lượng chiến đấu: “Người Việt Nam hèn nhát… Người Việt Nam không thể có kỷ luật… Người Việt Nam không thể hiểu được chiến thuật và chiến lược…”. Nhưng Việt Cộng cũng là người Việt Nam. Hồ sơ quân sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn ghi lại nhiều lần một đại đội Việt Cộng bao vây hai hoặc thậm chí ba đại đội của VNCH và tiêu diệt họ. Các hồ sơ này cũng ghi lại những trường hợp một đại đội Việt Cộng, bị bao vây bởi các tiểu đoàn VNCH, đã chiến đấu ác liệt và phá được vòng vây. Tôi đã thấy bằng chứng về việc Việt Cộng tấn công các vị trí súng máy trên địa hình trống trải và gây ra những tổn thất khủng khiếp. Điều này không thể thực hiện được với những tên cướp vô kỷ luật. Trong nhiều năm nay, chiến thuật và chiến lược của Việt Cộng đã thành công đến mức hỏa lực mạnh mẽ và sự hỗ trợ trên không của phía chúng tôi là những thứ duy nhất ngăn cản được chiến thắng của Việt Cộng cho tới nay. Tất cả họ đều là người Việt Nam. Điều gì tạo nên sự khác biệt? Thiếu tá “Charging Charlie” Beckwith, chỉ huy Lực lượng Đặc nhiệm tại Plei Me, đã sử dụng các từ “tận tụy”, “cứng rắn”, “có kỷ luật”, “được huấn luyện bài bản” và “dũng cảm” để mô tả Việt Cộng – và gần như đồng thời lên án những người Việt Nam ở phe chúng tôi.
Rõ ràng động lực là yếu tố chính trong vấn đề này. Người lính Việt Cộng tin vào sự nghiệp của mình. Anh ta tin rằng mình đang chiến đấu vì nền độc lập dân tộc. Anh ta có niềm tin vào các lãnh đạo của mình, những người đó cực kỳ tận tụy, có lẽ còn hơn cả anh ta. Các sĩ quan của anh ta sống trong cùng một túp lều và ăn cùng một loại thức ăn. Còn những người lính ở “phe bên kia” thì biết rằng các nhà lãnh đạo của anh ta ở được vị trí của họ là nhờ gia đình, tiền bạc hoặc phần thưởng cho các ân huệ chính trị. Anh ta biết rằng mối quan tâm chính của các sĩ quan là kiếm tiền và được ưu ái. Các đại úy và thiếu tá của anh ta ăn ở các nhà hàng Pháp và trả tiền cho một bữa ăn bằng số tiền mà một người lính kiếm được trong một tuần. Các sĩ quan ngủ trong biệt thự có lính canh cùng với tình nhân của họ. Họ tìm ra nhiều lý do để không có mặt cùng binh lính trong trận chiến. Binh lính nghe thấy các sĩ quan của mình “phét lác” về vai trò của họ trong trận chiến. Binh lính biết rằng anh ta có thể sẽ bị lừa mất tiền lương. Anh ta biết rằng thiết bị mà anh ta có thể cần đang được bán ở trung tâm thành phố. Động lực duy nhất của anh ta chỉ là biết rằng mình đang chiến đấu để duy trì chính phủ của mình – một hệ thống đã khiến anh ta không được học hành và sống trong cảnh nghèo đói. Anh ta đã được hứa hẹn rất nhiều điều, chỉ để trở thành “hứa hão”, đến nỗi bây giờ anh ta không tin bất cứ điều gì từ chính phủ của mình.
Tôi đã thấy người lính Nam Việt Nam chiến đấu rất tốt, và đôi khi rất dữ dội, nhưng thường chỉ khi ở trong tình thế không có lựa chọn nào khác. Vào những lúc đó, anh ta đang chiến đấu để sinh tồn. Trong Dự án Delta có rất nhiều người Việt Nam dũng cảm. Khi tôi quen thân họ đủ để thảo luận về những điều như vậy, tôi đã hỏi họ, “Tại sao các anh lại đi làm những nhiệm vụ này hết lần này đến lần khác? Các anh tình nguyện đi. Tại sao các anh không từ bỏ và làm công việc ít nguy hiểm hơn?” Câu trả lời luôn giống nhau: “Chúng ta là bạn. Chúng ta cùng nhau chiến đấu. Nếu chúng tôi nghỉ việc, điều đó sẽ khiến dự án trở nên tồi tệ”. Không bao giờ là “Chúng tôi đang chiến đấu vì nền dân chủ… vì tự do… vì nhân dân…” hoặc bất kỳ sự nghiệp nào. “Kẻ thù” mà anh ta đang chiến đấu đã trở thành một khái niệm trừu tượng. Anh ta chiến đấu, và chiến đấu tốt, để duy trì tình anh em với những người bạn. Dự án này đã tạo ra một sự huyền bí về chủ nghĩa cá nhân và sự ưu tú. Anh ta cảm thấy mình quan trọng. Niềm tin và đức tin đã được đặt vào anh ta và anh ta đã đáp lại tương xứng. Người Mỹ không coi thường anh ta. Sinh mạng của mọi người Mỹ trong nhóm đều phụ thuộc vào người Việt Nam, và chúng tôi cho họ biết rằng chúng tôi biết điều đó. Chúng tôi sớm phát hiện ra rằng kêu gọi họ trên cơ sở lòng yêu nước sẽ chỉ lãng phí thời gian. Họ cảm thấy rằng mình chẳng khác gì những công cụ của các chính trị gia Sài Gòn đầy mưu mô.
Quân đội VNCH và các chỉ huy của họ biết rằng nếu họ không làm phiền Việt Cộng, họ sẽ được an toàn trước các cuộc tấn công của Việt Cộng. Tôi sẽ không bao giờ quên được cú sốc khi phát hiện ra rằng nhiều chỉ huy quân đội và quận trưởng thực ra đang thực hiện các thỏa thuận riêng với “kẻ thù”. Các hồ sơ ở Sài Gòn ghi lại những trường hợp quân đội VNCH đi cùng các cố vấn người Mỹ được Việt Cộng yêu cầu hạ vũ khí và tránh xa người Mỹ. Quân đội đã làm như vậy và những lời hứa của Việt Cộng về sự an toàn cho quân đội VNCH đã được tôn trọng.
Để cố gắng thể hiện rằng sự ủng hộ dành cho Việt Cộng đang suy yếu, người ta đã nhấn mạnh rất nhiều vào số liệu về các vụ đào ngũ của Việt Cộng. Ngay cả khi chấp nhận khả năng không chắc chắn về tính chính xác của những con số này, thì chúng cũng vô giá trị khi so sánh với các vụ đào ngũ của quân đội VNCH. Tỷ lệ đào ngũ được thừa nhận và các báo cáo về các vụ trốn nghĩa vụ quân sự, mặc dù đã được giảm xuống, vẫn rất đáng kinh ngạc. Thông thường, chỉ những người bị bắt mới được báo cáo. Khi đọc bản Tóm tắt hoạt động và các tờ báo trong thời gian ở Việt Nam, tôi liên tục thấy có hàng trăm binh lính VNCH được liệt kê là mất tích sau các trận chiến lớn. Người đọc hẳn sẽ kết luận rằng hàng trăm người này, hiện đã lên tới hàng nghìn người, là tù nhân của Việt Cộng. Họ chắc chắn không được liệt kê là những kẻ đào ngũ. Nếu điều này là sự thật, thì một nửa số Việt Cộng sẽ phải làm lính gác trong các khu nhà tù binh chiến tranh – tất nhiên, điều này thật nực cười.
Không khó để hình dung sự thiếu nhiệt tình và miễn cưỡng tham gia chiến đấu này. Phần lớn người dân đều chống Sài Gòn hoặc ủng hộ Việt Cộng, hoặc cả hai, và quân đội VNCH được tuyển mộ từ người dân.
Tôi không phải là người duy nhất trong số những người cùng thời biết hầu hết những điều này. Tuy nhiên, bất cứ khi nào có ai đó đặt câu hỏi về sự hiện diện của chúng tôi ở Việt Nam – xét đến những sự thật kể trên – thì lý lẽ cũ luôn được đưa ra: “Chúng ta phải ngăn chặn sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản ở đâu đó… nếu chúng ta không chiến đấu với cộng sản ở đây, chúng ta sẽ phải chiến đấu với họ ở đất nước mình… nếu chúng ta rút lui, phần còn lại của châu Á sẽ trở thành cộng sản… đó là những người thiếu hiểu biết đã bị lừa gạt; họ không hiểu sự khác biệt giữa nền dân chủ và chủ nghĩa cộng sản…”.
Bản thân tôi là người cực kỳ chống cộng, nên những “lập luận” này đã làm tôi thỏa mãn trong một thời gian dài. Thực ra, tôi nghĩ rằng chính việc nói đi nói lại những điều này với bản thân đã khiến tôi có thể tham gia vào những việc tôi đã làm ở Việt Nam. Nhưng chúng ta [Mỹ] có ngăn chặn được chủ nghĩa cộng sản không? Ngay cả trong thời gian ngắn ngủi tôi ở Việt Nam, Việt Cộng rõ ràng đã mạnh lên; chính phủ VNCH kiểm soát ngày càng ít diện tích đi. Chúng ta càng đổ nhiều quân và tiền vào, mọi người càng ghét chúng ta. Các quốc gia trên khắp thế giới đang mất dần thiện cảm với lập trường của chúng ta ở Việt Nam. Các quốc gia cho đến nay vẫn giữ lập trường trung lập đang trở nên cực kỳ chống Mỹ. Một ngôi làng gần Tây Ninh, nơi tôi từng ngủ an toàn sáu tháng trước, đã trở thành trung tâm của một chiến dịch của Việt Cộng khiến hai người bạn Mỹ thiệt mạng. Một nhóm Lực lượng Đặc nhiệm hoạt động trong khu vực này đã gần như bị tiêu diệt trong khoảng thời gian bốn tháng. Phái bộ Viện trợ Hoa Kỳ (USOM), những đại diện dân sự có thể di chuyển bằng xe cộ tương đối an toàn trên khắp vùng nông thôn, đã bị bắt cóc và bị giết. Giống như quân đội, giờ đây họ phải di chuyển bằng máy bay.
Câu hỏi thực sự là liệu chủ nghĩa cộng sản đang lan rộng bất chấp sự tham gia của chúng ta – hay vì sự tham gia của chúng ta.
Thái độ cho rằng người nông dân ít học sẽ thiếu sự chín chắn về chính trị để quyết định giữa chủ nghĩa cộng sản và dân chủ, và rằng “… chúng tôi chỉ làm điều này vì lợi ích của chính các bạn”, mặc dù nó mang âm hưởng thực dân quen thuộc, lúc đầu có vẻ có lý. Sau đó, tôi nhớ ra rằng hầu hết các ngôi làng sẽ có lúc nằm dưới sự kiểm soát của Việt Cộng, có lúc dưới sự kiểm soát của chính phủ VNCH. Có bao nhiêu người Mỹ đã xem xét kỹ lưỡng cả hai mặt này? Quân đội VNCH càng thường xuyên đi qua một khu vực, thì khu vực đó càng chắc chắn sẽ trở thành có cảm tình với Việt Cộng. Việt Cộng có thể ngủ nhờ trong nhà dân, nhưng quân đội VNCH thì lục soát nhà. Việt Cộng còn giúp dân trồng trọt và thu hoạch mùa màng; quân đội chính phủ [VNCH] thì luôn luôn san bằng chúng. Việc cưỡng hiếp bị trừng phạt nghiêm khắc trong hàng ngũ Việt Cộng, nhưng lại rất phổ biến trong quân đội VNCH đến nỗi nó hiếm khi được báo cáo vì lo sợ những hành động tàn bạo thậm chí còn tồi tệ hơn.
Tôi thấy Lữ đoàn Nhảy dù vào Nha Trang. Nha Trang là một thành phố của chính quyền VNCH và Lữ đoàn Nhảy dù Việt Nam là quân đội của chính phủ. Trên thực tế, ban đầu họ được Lực lượng Đặc nhiệm huấn luyện, và họ thực sự đã khiến thành phố này chìm trong nỗi kinh hoàng trong ba ngày. Các thương gia đã đi gom tiền để đưa họ ra khỏi thành phố; các quán cà phê và quán bar đóng cửa.
Binh lính quấy rối phụ nữ trên phố. Họ sẽ vào một quán bar hoặc quán cà phê – và gọi nhiều loại thức ăn. Khi hóa đơn được đưa ra, họ sẽ không trả tiền. Thay vào đó, họ chỉ đơn giản là phá hoại nơi đó, đạp đổ bàn ghế và đập vỡ bát đĩa. Trong khi những người đàn ông này quấy rối phụ nữ, cảnh sát chỉ đứng đó, bất lực hoặc không muốn giúp đỡ. Trên thực tế, tình hình khó khăn đến mức lính Mỹ, nếu ở trong thành phố cùng lúc với Lữ đoàn Nhảy dù Việt Nam, được yêu cầu tránh xa đường phố vào ban đêm để tránh bị tổn hại.
Tất cả đều là dối trá. Chúng tôi không bảo vệ tự do ở miền Nam Việt Nam. Không có tự do nào để bảo vệ. Phản đối chính quyền có nghĩa là vào tù hoặc tử hình. Chủ nghĩa trung lập bị cấm và bị trừng phạt. Các tờ báo không nói “điều nên nói” bị đóng cửa. Mọi người thậm chí không được tự do rời đi và Nam Việt Nam là một trong số ít quốc gia không đủ hạn ngạch thị thực Mỹ. Chúng ta không phải là những chiến binh vì tự do. Chúng ta là những chiếc xe tăng Nga phá hủy hy vọng của một Hungary ở châu Á.
Chúng ta không mang đến cho Việt Nam nền dân chủ – mà là chủ nghĩa chống cộng. Đây là lựa chọn duy nhất của dân làng. Đó là lý do tại sao hầu hết họ đã ủng hộ Việt Cộng và tránh xa lựa chọn thay thế. Người dân vẫn nhớ rằng khi họ chiến đấu với người Pháp để giành độc lập dân tộc, chính người Mỹ đã giúp Pháp. Chính những quả bom chống cộng của Mỹ đã giết chết con cái họ. Chính chủ nghĩa chống cộng của Mỹ đã hậu thuẫn hết nhà độc tài này đến nhà độc tài khác ở Sài Gòn. Khi bom napalm chống cộng thiêu đốt con cái họ, thì việc một bác sĩ Lực lượng Đặc nhiệm chống cộng có mặt sau đó để băng bó vết thương sẽ chẳng có ý nghĩa gì.
Một ngày nọ, tôi hỏi một trong những phi công lái trực thăng người Việt rằng anh ta nghĩ gì về cuộc ném bom gần đây nhất. “Tôi nghĩ có lẽ hôm nay chúng ta đã tạo ra thêm nhiều Việt Cộng”. Tháng 7, khi ông McNamara hỏi tôi rằng cuộc ném bom ở Chiến khu D có hiệu quả như thế nào, tôi đã nói với ông ấy, “Đó là một loại thuốc diệt cỏ đắt tiền. Trừ khi được thả vào túi quần, còn thì nó chỉ có hiệu quả ở những khu nhà ở thôi”. Ông ấy không có vẻ gì là ngạc nhiên. Thực tế, bình luận duy nhất của ông ấy sau khi tôi kể lại những trải nghiệm của nhóm tôi ở Chiến khu D là khi ông ấy quay sang Tướng Westmoreland đang ngồi bên phải tôi. “Tôi đoán là chúng ta vẫn còn một vấn đề nhỏ về phản ứng”, McNamara nói. Đại sứ Taylor không nói gì.
Trong thời gian tôi ở Việt Nam, chính quyền Mỹ và/hoặc chính quyền Sài Gòn luôn phàn nàn về việc Bắc Việt vi phạm Hiệp định Geneva. Tuy nhiên, đơn vị của tôi, Lực lượng Đặc nhiệm, ban đầu đã đến Việt Nam trong trang phục dân sự, đi lại bằng hộ chiếu dân sự, với mục đích cụ thể là huấn luyện và trang bị vũ khí cho các nhóm dân tộc thiểu số cho CIA, một hành vi vi phạm Hiệp định Geneva. Sự “tôn trọng” của Sài Gòn đối với Hiệp định này được thể hiện rõ nhất qua một bức biếm họa chính trị trên tờ Saigon Post. Bức biếm họa vẽ một người đàn ông đang đi tiểu lên một cuộn giấy có ghi dòng chữ “Hiệp định Geneva 1954”. Khi lính của Dự án Delta phát hiện ra kho vũ khí tại Vịnh Vũng Rô, Tướng Nguyễn Khánh đã vui vẻ đưa số vũ khí đó cho ba người của ICC như một bằng chứng với thế giới rằng Hà Nội đã vi phạm Hiệp định. Rõ ràng là họ đã quá lịch sự khi chỉ ra rằng kho vũ khí này được tìm thấy bởi những người mặc quân phục do Mỹ cung cấp, mang theo vũ khí của Mỹ; những người đã được người Mỹ huấn luyện và trả tiền. Họ cũng không đề cập đến việc vị tướng này đã bay đến địa điểm này bằng một chiếc trực thăng của Mỹ và vũ khí đang được đưa lên một con tàu do Mỹ sản xuất, được điều khiển bởi những thủy thủ do Mỹ đào tạo.
Phải mất một thời gian dài và một núi bằng chứng nhưng cuối cùng tôi đã tìm ra một số sự thật. Thế giới không chỉ có người tốt và người xấu. Chống cộng sản là một sự thay thế tệ hại cho nền dân chủ. Bây giờ tôi biết rằng có nhiều loại chủ nghĩa cộng sản nhưng không có loại nào hấp dẫn tôi. Về lâu dài, Việt Nam có tốt hơn dưới thương hiệu chủ nghĩa cộng sản của Hồ Chí Minh hay không không phải do tôi hay chính phủ của tôi quyết định. Quyết định đó là của người Việt Nam. Tôi cũng biết rằng chúng ta đã cho phép tạo ra một con quái vật quân sự sẽ nói dối các quan chức được bầu của chúng ta – và cả hai đều sẽ nói dối người dân Mỹ.
Đối với những người vừa than phiền về chiến tranh và các vụ đánh bom lại vừa bảo vệ nó trên cơ sở rằng nó đang ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản, tôi xin nhắc lại lời của phi công người Việt: “Tôi nghĩ có lẽ hôm nay chúng ta đã tạo ra thêm nhiều Việt Cộng”. Việc Đức Quốc xã đánh bom London không khiến người dân London bỏ cuộc. Chúng ta không độc quyền về tình cảm dành cho kẻ yếu thế. Người dân các quốc gia khác sẽ tiếp tục ngày càng cảm thông với quốc gia nông nghiệp nhỏ bé đang bị quốc gia giàu có và hùng mạnh nhất thế giới tấn công.
Khi tôi trở về từ Việt Nam, người ta hỏi tôi, “Ông có phẫn nộ với những người trẻ chưa từng đến Việt Nam hay tham gia bất kỳ cuộc chiến tranh nào, lại phản đối cuộc chiến đó không?” Ngược lại, tôi thấy nhẹ nhõm. Tôi nghĩ họ nên được khen ngợi. Tôi phải đợi đến năm 35 tuổi, sau 10 năm trong quân đội và 18 tháng đích thân chứng kiến sự ngu ngốc của cuộc chiến, mới có thể hiểu ra điều đó. Việc những người trẻ tuổi này có thể hiểu ra nhanh chóng và chính xác như vậy không chỉ là sự ghi nhận cho trí thông minh của họ mà còn là chiến thắng lớn của cá nhân họ sau cả một đời bị tác động và nhồi sọ. Tôi chỉ hy vọng rằng bức tranh mà tôi đã cố vẽ ra sẽ giúp những người khác tìm ra sự thật mà không phải mất đến 10 năm. Những người phản đối chiến tranh ở Việt Nam không chống lại những chàng trai của chúng ta ở Việt Nam. Mà ngược lại. Điều họ chống lại là việc những chàng trai của chúng ta có mặt ở Việt Nam. Họ không phải là những người không yêu nước – một lần nữa, điều ngược lại mới đúng. Họ phản đối việc con người, của chúng ta và của những nước khác, đang phải chết vì một lời nói dối, do đó làm hỏng chính ý nghĩa của từ “nền dân chủ”.
Có những người sẽ cho rằng tôi chỉ bắt đầu cảm thấy những điều này sau khi trở về từ Việt Nam. Trong những tuần cuối cùng ở đất nước đó, tôi đã xuất bản một tờ báo thông tin rất nhỏ cho Lực lượng đặc nhiệm. Đầu trang của tờ báo là một ngọn đuốc đang cháy. Tôi đã cố gắng theo cách riêng của mình để mang lại một chút ánh sáng cho những người làm việc cùng. Ở trang cuối của số đầu tiên là tên của 4 người, tất cả đều là bạn của tôi, được báo cáo là đã tử trận trong cùng một ngày.
Tôi đã viết lời đề tặng này cho những người bạn đó: Cách tốt nhất để chúng ta tưởng nhớ những thành viên đã khuất là phấn đấu vì một tương lai tươi sáng, nơi con người tìm ra giải pháp khác cho các vấn đề của mình thay vì phải dùng đến sự vô ích và ngu ngốc của chiến tranh.■
Donald Ducan
Hoàng Anh (dịch)