Mùa thu này, chúng ta lại được sống trong không khí hào hùng của cuộc Cách mạng Tháng Tám lịch sử năm 1945. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết rằng, Tổng khởi nghĩa Tháng Tám khác xa với một sự kiện bộc phát đơn thuần. Đó là một quá trình chuẩn bị lâu dài, bền bỉ với biết bao nhiệt huyết, ý chí và tinh thần đoàn kết của cả một dân tộc. Trong số này, Tạp chí Phương Đông kính mời quý độc giả cùng tìm hiểu về hành trình vĩ đại ấy qua bài viết “Từ cao trào chống Nhật cứu nước tới Cách mạng Tháng Tám năm 1945”, trích tạp chí Đối diện số 38, tháng 8/1972.
I. Cao trào chống Nhật cứu nước
Đúng như nhận định của Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD) trong báo Cờ giải phóng: “… Hai quân thù Nhật, Pháp đều đang sửa soạn tới chỗ tao sống mày chết, quyết liệt cùng nhau”, đêm ngày 09/3/1945, Nhật nổ súng đánh Pháp cùng một lúc trên toàn cõi Đông Dương, Pháp đầu hàng nhanh chóng.
Lúc Nhật nổ súng đánh Pháp, Ban Thường vụ Trung ương ĐCSĐD đã lập tức mở ngay cuộc họp khẩn cấp ở làng Đình Bảng (Bắc Ninh), cách Hà Nội 16km. Liên tiếp trong 3 ngày (từ ngày 9 đến 12/3/1945), Hội nghị đã thảo luận về tình hình Đông Dương và đã đưa ra những nhận định sau:
1. Cuộc đảo chính đã tạo ra một tình hình khủng hoảng chính trị sâu sắc, làm cho những điều kiện của cuộc khởi nghĩa vũ trang đi đến chỗ chín muồi nhanh chóng. Ba yếu tố chính: khủng hoảng chính trị (phát xít Nhật không rảnh tay đối phó với cách mạng), nạn đói ghê gớm (làm quần chúng vô cùng căm phẫn Nhật) và Thế chiến Thứ hai đi đến chỗ quyết liệt (Đồng minh sẽ đổ bộ vào Đông Dương đánh Nhật) đã giúp cho cuộc khởi nghĩa đi đến chỗ bùng nổ.
2. Sau cuộc đảo chính, Nhật trở thành kẻ thù chính của dân tộc Việt Nam. Khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật – Pháp” được thay thế bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”.
3. Phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng các căn cứ địa, duy trì và mở rộng chiến tranh du kích phải là phương pháp đấu tranh của dân tộc ta để “đóng vai chủ động trong việc đánh đuổi quân ăn cướp Nhật Bản ra khỏi nước”.
Hội nghị này cũng nhận định là mặc dù quân Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương là một điều kiện thuận lợi cho tổng khởi nghĩa, nhưng đó không phải là một điều kiện tất yếu: nhân dân Việt Nam phải dựa vào sức mạnh là chính, không thể ỷ lại vào người và bó tay trong khi tình thế biến chuyển thuận lợi.
Toàn bộ những nhận định và những quyết định quan trọng của Hội nghị đã được ghi trong bản chỉ thị ngày 12/3/1945: Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Cách mạng Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn tiền khởi nghĩa, giai đoạn chống Nhật cứu nước.
II. Chính trị của Nhật và nạn đói năm 1945
Sau khi lật đổ Pháp, để một mình thống trị Đông Dương, phát xít Nhật tuyên bố cho Việt Nam “độc lập”. Nền “độc lập” đó thực ra chỉ là giả hiệu vì miền Bắc vẫn là xứ bảo hộ, miền Trung vẫn có vua và miền Nam thì không những dưới quyền kiểm soát mà còn dưới quyền cai trị của quân đội Nhật. Nhật một mặt giữ nguyên guồng máy thống trị cũ, giữ nguyên Bảo Đại, một mặt thành lập chính phủ Trần Trọng Kim, đồng thời tạo ra hàng loạt tổ chức phản động nhằm thu hút những phần tử tư sản mại bản để phục vụ cho chính sách “Đại Á” của Nhật.
Tổng Bí thư ĐCSĐD Trường Chinh trong một bài nhận định trên tạp chí Cộng sản số 3 đã tóm tắt chính sách của Nhật: “… dùng thủ đoạn phát xít tàn bạo và phương pháp lừa phỉnh để cướp bóc về kinh tế, chia rẽ về chính trị, tiến công về quân sự”. Báo Cờ giải Phóng, cơ quan trung ương Đảng cũng nhận định về tính chất và khả năng của Chính phủ Trần Trọng Kim có thể làm được công chuyện gì đáng kể không? – Nhất định không! Thân phận bù nhìn, nó chỉ có thể giữ việc bù nhìn.
Trong khi đó, phong trào đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang của quần chúng đang diễn ra sôi nổi khắp nơi. Tại vùng thượng du Bắc bộ, các chiến khu Lê Lợi, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung, Nguyễn Huệ… liên tiếp ghi nhận những cuộc nổi dậy của quần chúng, chiếm đóng các đồn lính địch và thành lập những chính quyền cách mạng địa phương. Tại Bắc Ninh, tự vệ tổ chức biểu tình thị uy và chiếm kho thóc, phát cho dân nghèo. Tại Hương Yên, đồn Bần Yên Nhân bị lực lượng cách mạng tấn công, chiếm toàn bộ vũ khí. Ở Quảng Ngãi, một số cán bộ, đảng viên ĐCSĐD đang bị giam ở trại an trí Ba Tơ được dân chúng địa phương và binh lính gác trại ủng hộ, đã nổi dậy tịch thu vũ khí của địch và thành lập đội du kích Ba Tơ với 28 chiến sĩ và 24 khẩu súng (11/3/1945). Cùng lúc đó, nhân lúc Pháp và Nhật đang còn bắn nhau, nhiều cán bộ cách mạng đang bị giam đã phá tù hay vượt ngục ra ngoài. Ở các nhà tù Nghĩa Lộ, Sơn La, Buôn Mê Thuột, Nhà giam Hỏa Lò Hà Nội… đâu đâu cũng có người nổi dậy đấu tranh, phá tù.
Lúc phong trào Việt Minh đang lên mạnh cũng là lúc nạn đói hoành hành nghiêm trọng ở khắp miền Bắc và phía bắc miền Trung. Nạn lạm phát giấy bạc đã làm giá sinh hoạt nhảy vọt chưa từng thấy. Nạn đói đã diễn ra từ Bắc bộ đến Trị Thiên, kinh khủng nhất là đồng bằng Bắc bộ và miền Bắc Trung bộ. Do chính sách kinh tế chiến tranh độc ác của phát xít Nhật, chỉ trong một thời gian ngắn, cuối năm 1944 đầu năm 1945, nạn đói đã cướp mất một phần mười dân số Việt Nam lúc đó. Trong hoàn cảnh toàn dân căm thù Pháp – Nhật và thiếu ăn thiếu mặc, khẩu hiệu “Dân tộc độc lập” và “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói” do ĐCSĐD đề ra đã tập hợp đông đảo quần chúng và đưa đến tổng khởi nghĩa. Tại Vĩnh Yên, gần 50 kho thóc của Nhật và các phần tử tay sai Nhật với hàng vạn tấn thóc đã bị phá và chia cho dân nghèo. Ở Phúc Yên, nhân dân xã Anh Thắng kéo đến nhà Lý trưởng lấy 70 tạ thóc để trong kho. Một thuyền chở thóc cho Nhật bị quần chúng chặn đánh trên sông Hồng. Ở Ninh Bình, 3000 người biểu tình, phá tan 12 kho thóc. Ở Hưng Yên trong vòng một tháng, khoảng bốn vạn dân đói đã được chia thóc lấy từ các kho của địch ra.
Những cuộc phá kho thóc, giải quyết nạn đói của quần chúng không phải chỉ có ý nghĩa kinh tế trước mắt mà thực ra còn mang một nội dung chính trị sâu sắc. Quần chúng qua nạn đói đã hiểu được đâu là những kẻ thù chính yếu của mình và đã ý thức được là muốn có gạo ăn, muốn sống thì con đường duy nhất phải theo là làm cách mạng, tổ chức tự vệ, tự vũ trang cho mình để đấu tranh quyết liệt với kẻ thù.
Ảnh hưởng của phong trào phá kho thóc, giải quyết nạn đói ở Bắc bộ và Trung bộ đã lan ra khắp nước. Ở Nam bộ đã có cuộc vận động quyên góp, gửi gạo ủng hộ miền Bắc. Đến giữa tháng 6 năm 1945, nhân dân miền Nam đã góp được hơn một triệu đồng cứu đói và gửi ra Bắc một nghìn tấn gạo. Việc cứu đói cũng lên mạnh ở các thành thị, lôi cuốn các tầng lớp nhân dân tham gia, nhất là thanh niên, sinh viên, học sinh. Nó đã có tác dụng giáo dục cho quần chúng tinh thần yêu nước và căm thù giặc Nhật, đồng thời làm cho quần chúng nhận thấy bản chất dã man của Nhật và đám tay sai của chúng.
III. Giờ khởi nghĩa đến gần
Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị thành lập tại mỗi địa phương những “Ủy ban dân tộc giải phóng” và trong phạm vi toàn quốc thì lập Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam, tức Chính phủ cách mạng lâm thời của nước Việt Nam mới. Ngày 15/4/1945, Hội nghị Quân sự Cách mạng Bắc Kỳ được triệu tập ở Bắc Giang do Tổng Bí thư Trường Chinh chủ tọa, nhằm mục đích chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang tranh giành chính quyền sắp tới. Do quyết nghị của Hội nghị này, ngày 16/5/1945, Việt Nam Giải phóng quân được thành lập, thống nhất các lực lượng vũ trang sẵn có như Việt Nam Cứu quốc quân, Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Trong cả nước, 7 chiến khu cũng được xây dựng và để chỉ huy các chiến khu miền Bắc Đông Dương, đồng thời giúp đỡ cho toàn quốc về mặt quân sự, một Ủy ban Quân sự Cách mạng Bắc kỳ đã được đề cử.
Đầu tháng 5 năm 1945, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về đến chiến khu Hoàng Hoa Thám và chọn Tân Trào làm chỗ làm việc để chỉ đạo phong trào trong nước và chuẩn bị Đại hội Quốc dân lúc trước đã dự định mở vào cuối năm 1944. Do chỉ thị của Cụ, khu giải phóng đầu tiên của Việt Nam được thành lập, bao gồm hầu hết miền Thượng du Bắc Bộ (Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Yên Bái), và một số tỉnh miền Trung châu (Bắc Giang, Phú Thọ, Vĩnh Yên) đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban Chỉ huy lâm thời và được xây dựng vững chắc về mặt chính trị, kinh tế, quân sự cũng như văn hóa. Các Ủy ban Nhân dân Cách mạng do quần chúng cử lên đã thi hành “10 chính sách lớn” nhằm tiêu diệt chính quyền do Nhật đặt lên, phân phối tài sản tịch thu của các phần tử bóc lột quần chúng, tổ chức khai hoang, khuyến khích sản xuất, thực hiện kinh tế tự túc, bỏ thuế khóa và phu dịch, chống nạn mù chữ…
Trên mặt trận tư tưởng, ĐCSĐD đặc biệt chú trọng công tác báo chí và các hình thức tuyên truyền nhằm chống lại ảnh hưởng của Nhật và đánh mạnh vào các tư tưởng thân Nhật, sợ Nhật hoặc lợi dụng Nhật. Tạp chí Cộng sản số 3 viết: “Theo bọn Việt gian thân Nhật là ăn phải nọc độc của bọn thú dữ Phù Tang. Đối với Nhật chỉ có một cách là toàn dân một lòng, cầm vũ khí chống lại”. Báo Cờ Giải phóng số tháng 4 năm 1945 cũng kịch liệt đả phá quan niệm của một số người cho rằng có thể lợi dụng các luật lệ do Nhật ban hành để thực hiện cách mạng: “Tinh thần độc lập, giải phóng, tinh thần phản đế chỉ có thể nảy nở dưới những hình thức đấu tranh cách mạng, chứ không thể nảy nở trong phạm vi cải lương, hợp pháp do giặc Nhật ban cho”. Đồng thời, trung ương ĐCSĐD cũng nghiêm khắc phê phán những tư tưởng cơ hội hữu khuynh và tả khuynh của số nhân vật trong đảng hoặc chủ trương lợi dụng Nhật để “giành chính quyền”, hoặc tiếp tục giữ khẩu hiệu “đánh đuổi Nhật, Pháp” sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), mặc dù sau ngày đó Pháp đã mất hết quyền hành. Đối với Trung ương Đảng, tất cả mọi hoạt động của nhân dân Việt Nam đều phải chĩa mũi nhọn về phía kẻ thù chính yếu trước mặt là phát xít Nhật và bọn bù nhìn thân Nhật.
Lúc đó chiến tranh thế giới thứ hai gần kết thúc. Tháng 4 năm 1945, quân đội Liên Xô tiến vào thủ đô Berlin và một tháng sau, phát xít Đức chính thức đầu hàng. Lò lửa chiến tranh do phát xít gây ra ở châu Âu bị dập tắt. Tại châu Á, quân Nhật lui dần về thế phòng ngự chiến lược. Thực hiện lời cam kết ở hội nghị Yalta, tháng 8 năm 1945, Hồng quân Liên xô chia làm bốn đường khác nhau tiến đánh quân Nhật. Chỉ trong vài hôm, căn cứ chiến lược quan trọng nhất của Nhật ở Đông Tam Tỉnh bị tiêu diệt hoàn toàn và đạo quân Quan Đông tinh nhuệ nhất của Nhật gồm hơn một triệu người phải bỏ vũ khí đầu hàng. Thấy Liên Xô tiến đánh Nhật, Mỹ cũng vội vàng nhảy vào chiến cuộc và ném hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki, giết hại hàng trăm nghìn thường dân Nhật một cách vô ích. Sáng ngày 14/8/1945, các nhà cầm đầu phát xít Nhật chính thức tuyên bố đầu hàng vô điều kiện các lực lượng chống phát xít. Chiến tranh thế giới thứ hai thực sự chấm dứt.
Quân đội Nhật ở Đông Dương sau bao nhiêu năm xưng hùng xưng bá, bây giờ như rắn mất đầu, hoang mang rời rã. Chính phủ Trần Trọng Kim lung lay đến cực điểm. Một số đông Bộ trưởng hoảng sợ xin từ chức. Tuy vậy, chính phủ này vẫn cố gắng chống lại cách mạng một cách tuyệt vọng. Ngày 14 tháng 8 – ngày Nhật đầu hàng – một “chính phủ lâm thời” xuất thân từ Chính phủ Trần Trọng Kim ra tuyên cáo: “… Muốn khôi phục lòng tín nhiệm của Hoàng thượng (Bảo Đại), toàn thể nội các chúng tôi vẫn hợp tác chặt chẽ với các nhà đương chức Nhật Bản và chúng tôi không bao giờ quên rằng quân đội Nhật giải phóng cho ta ra ngoài cái ách áp chế của một ngoại quốc”.
Tình hình Đông Dương lúc đó vô cùng nghiêm trọng. Quần chúng Việt Nam đã hết sức sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa, nhưng lại phải đối phó với nhiều vấn đề khẩn thiết. Một trong những vấn đề đó là việc quân đội Tưởng Giới Thạch và quân Mỹ Anh sẽ tiến vào Đông Dương chiếm đóng thay Nhật. Với bản chất đế quốc của chúng, chắc chắn những chính quyền Anh, Mỹ và Tưởng Giới Thạch sẽ không để yên cho dân Việt Nam lựa chọn, mà có thể sẽ đặt một chính quyền bù nhìn khác, trái với ý nguyện của dân tộc Việt. Cách mạng phải giải quyết gấp rút vấn đề đó bằng cách chạy đua với quân đội Đồng minh Anh Mỹ để thiết lập một chính quyền.
Ở Đại hội quốc dân Tân Trào, thay mặt Ban chấp hành Trung ương ĐCSĐD, Tổng Bí thư Trường Chinh đã đề ra cách giải quyết cho vấn đề đó: Nhân dân Việt Nam phải triệt để lợi dụng sự thất bại của phát xít Nhật mà nổi dậy giành lấy chính quyền từ tay Nhật và đám tay sai của chúng trước khi quân đội Đồng minh vào Đông Dương và phải đứng địa vị chủ nhân của nước nhà để tiếp quân đồng minh nếu họ vào tước vũ khí quân đội Nhật. Cách mạng tháng Tám bắt đầu bùng nổ trong một tinh thế vô cùng khẩn cấp và thuận lợi.
IV. Giờ khởi nghĩa đã tới
Vừa được tin Nhật đã hoàn toàn tan rã và đầu hàng Đồng minh, ngày 12/8/1945, Ủy ban Chỉ huy lâm thời Khu giải phóng hạ lệnh khởi nghĩa cho Giải phóng quân, các đội tự vệ, các Ủy ban Nhân dân Cách mạng và toàn thể nhân dân trong khu. Ngay ngày hôm sau, Đại hội toàn quốc của ĐCSĐD khai mạc ở Tân Trào (Tuyên Quang), làm việc trong ba ngày liền. Hội nghị này đã đề ra những nguyên tắc cơ bản cho việc khởi nghĩa (tập trung lực lượng vào những việc chính; thống nhất mọi phương tiện quân sự, chính trị, hành động và chỉ huy; kịp thời không bỏ lỡ cơ hội) và định ra đường lối đối nội và đối ngoại cần thực hiện sau khi tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Đêm 13/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa do Tổng bộ Việt Minh thành lập ra Quân lệnh số 1, hạ lệnh tổng khởi nghĩa:
“Hỡi quân dân toàn quốc!
Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh!
Cơ hội có một cho quân, dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập nước nhà!
Chúng ta phải hành động cho nhanh với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!
Tổ quốc đang đòi hỏi những hy sinh lớn lao của các bạn!
Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta!”
Hội nghị toàn quốc của ĐCSĐD vừa bế mạc thì Đại hội quốc dân họp ngay ở Tân Trào với sự tham dự của hơn 60 đại biểu Bắc, Trung, Nam và đại biểu các đảng phái chính trị, đoàn thể nhân dân, các dân tộc, tôn giáo, kiều bào ở nước ngoài. Đại hội tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Tổng bộ Việt Minh và 10 chính sách lớn của Việt Minh. Đại hội quy định quốc kỳ là cờ đỏ, giữa có sao vàng, quốc thiều là bài tiến quân ca, và cử ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ban Thường trực của Uỷ ban Dân tộc Giải phóng gồm có 5 người: Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng, Dương Đức Hiền. Bản tuyên bố của Đại hội đã nói lên tinh thần dựa vào sức mình là chính và ý chí quyết thắng của toàn thể dân tộc: “Không phải Nhật bại là nước ta tự nhiên được độc lập. Nhiều sự gay go, trở ngại sẽ xảy ra. Chúng ta phải khôn khéo và kiên quyết. Khôn khéo để tránh những sự không lợi cho ta. Kiên quyết để giành cho được nền độc lập hoàn toàn. Trên thế giới, sau cuộc chiến tranh này, một dân tộc quyết tâm và nhất trí đòi quyền độc lập thì nhất định được độc lập”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước: “… Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang dựa nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”
Đảng Cộng sản Đông Dương cũng phát lời hiệu triệu toàn thể quốc dân đồng bào và các đoàn thể cứu quốc, dưới quyền chỉ huy của Ủy ban dân tộc giải phóng và Ủy ban khởi nghĩa. Đảng kêu gọi các Đảng viên cộng sản “phải sáng suốt trong việc lãnh đạo và cương quyết hy sinh trong việc chiến đấu để giành độc lập cho tổ quốc, để xứng đáng là một đội quân tiền phong của dân tộc”.
Bão táp cách mạng cuồn cuộn dâng lên. Toàn thể nhân dân Việt Nam sôi sục ý chí quyết tâm chiến đấu vì tự do, độc lập đã nổi dậy khởi nghĩa ồ ạt khắp nơi trong nước. Lửa đấu tranh bốc lên ngùn ngụt từ miền Thượng du Bắc Bộ đến cực nam Nam bộ. Chỉ trong 4 ngày, từ 14 đến 18/8/1945, nhiều xã huyện thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Yên Bái, Phú Thọ, Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phú Yên, Bắc Ninh, Hà Đông, Sơn Tây, Hải Dương, Hưng Yên, Kiến Giang, Ninh Bình, Thái Bình, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Ngãi, Khánh Hòa, Mỹ Tho, Sa Đéc đã nổi dậy cướp chính quyền. Quảng Ngãi được hoàn toàn giải phóng ngày 28/8/1945. Một đơn vị giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp chỉ huy tiến đánh thị xã Thái Nguyên ngày 16/8 để mở đường tiến về Hà Nội. Ngày 17/8, Giải phóng quân tiến đánh Tuyên Quang và chiếm được sau 4 ngày giao tranh. Riêng bốn tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh và Quảng Nam đã được quần chúng nổi dậy giải phóng trước nhất trong cả nước (18/8/1945).
Ở Hà Nội, ngày 17/8, Tổng hội viên chức của chính quyền thân Nhật tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại quảng trường Nhà hát thành phố để ủng hộ “chính phủ lâm thời” Trần Trọng Kim. Xứ ủy Bắc Kỳ và thành ủy Hà Nội đã điều động quần chúng chiếm lấy diễn đàn, loan tin Nhật đã đầu hàng, kêu gọi lật đổ chính quyền bù nhìn và tích cực tham gia khởi nghĩa cứu nước. Cuộc mít tinh sau đó biến thành biểu tình tuần hành thị uy. Quần chúng vừa đi vừa hô vang các khẩu hiệu “Ủng hộ Việt Minh”, “Đả đảo bù nhìn!”, “Việt Nam hoàn toàn độc lập”… Đoàn biểu tình rầm rộ đi từ quảng trường Nhà hát thành phố, qua Hàng Đào, Hàng Ngang, qua chợ Đồng Xuân lên Cửa Bắc, phủ Toàn quyền, nơi Tư lệnh quân đội Nhật đóng, rồi theo đường cột cờ về Cửa Nam. Sáng ngày 18/8, Ủy ban Quân sự Cách mạng (tức Ủy ban khởi nghĩa) của thành ủy Hà Nội chuyển từ ngoại ô vào đóng trụ sở ở số 101, phố Trần Hưng Đạo để trực tiếp điều động quần chúng giành chính quyền.
Sáng ngày 19/8/1945, cả thủ đô Hà Nội rợp bóng cờ đỏ sao vàng. Hàng trăm nghìn nông dân vùng ngoại thành và vùng chung quanh Hà Nội mang theo gậy gộc, mã tấu, dao phát bờ, câu liềm và vài khẩu súng tiến vào thành phố. Cuộc mít tinh do mặt trận Việt Minh tổ chức bắt đầu đúng 11 giờ sáng tại quảng trường Nhà hát thành phố. Liền sau đó, cuộc mít tinh biến thành biểu tình vũ trang, và quần chúng với sự bảo vệ của các đội tự vệ chiến đấu đã đưa nhau đi chiếm Phủ Khâm Sai, Trại lính bảo an, Sở cảnh sát và các công sở. Ở Trại bảo an, binh Nhật định cho xe tăng và lính chặn các ngả đường để uy hiếp cách mạng, nhưng trước khí thế cuồn cuộn của quần chúng khởi nghĩa và của gần 2000 tự vệ chiến đấu có vũ trang, cuối cùng tuy còn hàng vạn quân đóng tại Hà Nội, nhưng Nhật cũng đành khoanh tay để Việt Minh chiếm chính quyền.
Ngày 19/8, các tỉnh Yên Hải, Thái Bình, Phúc Yên, Thanh Hóa, Khánh Hòa nổi dậy. Ngày 20, khởi nghĩa thắng lợi ở Bắc Ninh, Thái Nguyên, Ninh Bình. Ngày 21, chính quyền về tay nhân dân tại Cao Bằng, Tuyên Quang, Sơn Tây, Nam Định, Kiến An, Nghệ An, Ninh Thuận. Ngày 22, hai tỉnh Hưng Yên và Quảng Yên được giải phóng.
Tại Huế, Ủy ban Khởi nghĩa Thuận Hóa quyết định điều động nhân dân tiến chiếm chính quyền vào đêm 22 rạng ngày 23 tháng Tám. Trên 150 000 gồm nông dân, công nhân lao động, thanh niên từ ngoại ô đến và từ trong thành phố tràn ra đường, chiếm các công sở. Ngày 30 tháng Tám, trước hàng vạn quần chúng tụ tập ở cửa Ngọ Môn, cờ quẻ ly bị hạ xuống, cờ đỏ sao vàng được kéo lên. Bảo Đại đọc chiếu thoái vị, trong đó có câu: “Tôi muốn làm công dân một nước tự do còn hơn làm Vua một nước nô lệ” và nộp ấn, kiếm cho phái đoàn Chính phủ Trung ương. Đại diện Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố xóa bỏ chính thể quân chủ ở Việt Nam. Chế độ phong kiến nước ta vĩnh viễn chấm dứt sau hàng nghìn năm được xây dựng.
Ở Sài Gòn, từ ngày 20 tháng Tám, cờ đỏ sao vàng đã xuất hiện ở nhiều nơi. Đêm 24, các đội “công đoàn xung phong”, “thanh niên xung phong của Sài Gòn, Chợ Lớn được lệnh tập trung và từng đoàn công nhân, nông dân, thanh niên mang theo giáo mác, tầm vông vạt nhọn từ các tỉnh Gia Định, Mỹ Tho, Biên Hòa… bằng mọi phương tiện rầm rập kéo về Sài Gòn. Sáng ngày 25, quân khởi nghĩa chiếm sở công an, sở cảnh sát, nhà ga, bưu điện, nhà đền, các quận, bốt… Hơn một triệu quần chúng đã biểu tình tuần hành, hô các khẩu hiệu “Đả đảo bù nhìn Nguyễn Văn Sâm”, “Việt Nam hoàn toàn độc lập”…
Với việc Hà Nội, Huế và Sài Gòn rơi vào tay cách mạng, Cách mạng Tháng Tám chính thức hoàn tất. Chỉ trong vòng 12 ngày (từ ngày 14 đến ngày 25/8/1945), quyền thống trị của đế quốc xây dựng ngót một trăm năm và chế độ quân chủ tồn tại hàng nghìn năm ở nước ta đã bị lật đổ, nhường chỗ cho một chế độ mới. Lần đầu tiên chính quyền cả nước thực sự về tay quần chúng.
Ở miền Bắc, Trung ương ĐCSĐD phái ông Lê Đức Thọ lên chiến khu đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về Hà Nội. Ngày 26 tháng 8, Cụ về đến Thủ đô. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình, trước cuộc mít tinh vĩ đại của nửa triệu người chào mừng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đọc bản Tuyên ngôn Độc lập:
“Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống; quyền sung sướng và quyền tự do…
Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của thực dân Pháp từ 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phía Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!…
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy!”
Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh thảo ra là kết tinh của những nguyện vọng tha thiết nhất của dân tộc Việt Nam và đã nói lên tâm hồn trong sáng, khí phách hào hùng của nhân dân Việt. Nó “là kết quả của bao nhiêu máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của những người con anh dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường… Bản Tuyên ngôn Độc lập ấy là kết quả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu dân Việt Nam”.
Ngày 2 tháng Chín 1945 là một ngày hội lớn của dân tộc Việt Nam. Nó chấm dứt chế độ thực dân và phong kiến ở nước ta, đồng thời mở đầu một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên nhân dân ta tự mình nắm lấy vận mệnh mình để thực hiện độc lập, tự do, hạnh phúc. Cách mạng Tháng Tám đã thành công. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ra đời. Người dân Việt Nam từ đây đã ngẩng cao đầu, hãnh diện là công dân của một nước có chủ quyền và sẵn sàng chiến đấu tới cùng để bảo vệ chủ quyền đó trước bất cứ kẻ thù từ đâu tới.■
(Theo Tạp chí Phương Đông)
[1] Tiêu đề bài viết do Ban biên tập đặt.