Năm 1970, sau chuyến thăm miền Bắc Việt Nam, học giả Mỹ nổi tiếng Noam Chomsky đã có bài ký sự đăng trên tạp chí “The New York Review of Books” (ngày 13/8/1970). Đây là một bản tường thuật sâu sắc và đầy cảm xúc, là một trong những tư liệu quan trọng giúp độc giả phương Tây hiểu hơn về cuộc sống thường nhật và tinh thần chiến đấu của người dân miền Bắc Việt Nam trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Qua những quan sát cá nhân và các cuộc trò chuyện với người dân, với các nhà lãnh đạo, giới trí thức… Chomsky không chỉ phản ánh hiện thực tàn khốc mà còn thể hiện lòng cảm phục trước sự bền bỉ, đoàn kết và quyết tâm chiến thắng của người Việt Nam. Tạp chí Phương Đông xin trích dịch giới thiệu tới bạn đọc bài viết này.
*
Chuyến bay của Ủy ban Kiểm soát Quốc tế (ICC) đến Hà Nội xoắn ốc lên cao quanh Viêng Chăn cho đến khi đạt độ cao được chỉ định, rồi bay qua một hành lang an toàn phía trên khu vực từng hứng chịu những trận ném bom dữ dội nhất trong lịch sử. Một chiếc tiêm kích Phantom lướt ngang qua gần đó – khiến phi hành đoàn và hành khách khó chịu – nhưng ngoài sự kiện đó ra, chúng tôi không thấy gì giữa những đám mây dày đặc cho đến khi ánh đèn Hà Nội hiện ra bên dưới.
Hành khách trên chuyến bay là một nhóm người đầy thú vị: các nhà ngoại giao Trung Quốc, nhà báo Nga, một tiểu thuyết gia người Ý, vài người Ba Lan và ba vị khách đến từ Mỹ.

Chúng tôi đến nơi vào ngày 10/4/1970 và rời đi một tuần sau, cũng trên chuyến bay đó. Vì chuyến thăm Việt Nam của tôi quá ngắn nên ấn tượng chắc chắn chỉ là bề nổi. Do tôi không nói được tiếng Việt nên thường xuyên phải cần đến phiên dịch, và mặc dù các phiên dịch viên rất thành thạo, quá trình dịch thuật vẫn mất thời gian và rõ ràng làm chậm sự giao tiếp. Tôi sẽ mô tả những gì tôi thấy và những gì tôi được kể. Độc giả nên lưu ý rằng những gì tôi được viết ra sẽ bị hạn chế.
Đối với một quốc gia đang có chiến tranh, miền Bắc Việt Nam có vẻ đặc biệt thư thái và yên bình. Chúng tôi đi dạo nhiều lần, không có người đi cùng, cả ở Hà Nội lẫn vùng quê. Thỉnh thoảng, chúng tôi được yêu cầu không chụp ảnh – ví dụ như ở lối vào một hang động nơi có một xưởng sản xuất bí mật. Tuy nhiên, những người chủ nhà Việt Nam không yêu cầu xem hay in ra bất kỳ bức ảnh nào chúng tôi chụp, kể cả ảnh màu. Tôi cũng nhận thấy an ninh ở đây dường như không quá chặt chẽ. Chúng tôi đã đến thăm Thủ tướng Phạm Văn Đồng tại một nơi nghỉ dưỡng ngoài thành phố, nhưng không thấy lính canh hay cảnh sát nào gần đó. Trong thành phố, có nhiều bộ đội ngồi bên hồ, đi dạo trên phố hoặc lẫn trong dòng người đi xe đạp đông đúc. Họ trông giống như những người lính đang trong kỳ nghỉ phép. Ở cả thành phố lẫn nông thôn đều có nhiều thanh niên làm việc trong các ngành nghề dân sự. Tôi chỉ thấy vài cảnh sát, chủ yếu là điều khiển giao thông và dường như không mang vũ khí.
Ở vùng nông thôn, một đám trẻ con tụ tập quanh chúng tôi khi chúng tôi đi bộ qua một ngôi làng hẻo lánh, cách khá xa các tòa nhà hành chính của tỉnh Thanh Hóa, nơi chúng tôi nghỉ qua đêm. Chúng tưởng rằng chúng tôi là người Nga, cũng như những đứa trẻ khác vẫy tay và hô “Liên Xô” khi chúng tôi lái xe qua các thị trấn và làng mạc. Chúng tôi luôn được chào đón bằng những nụ cười thân thiện, và ở những khu vực xa xôi hơn thì có thêm chút tò mò.
Ở bất cứ nơi nào chúng tôi đến, người dân trông có vẻ đều khỏe mạnh, đủ ăn và mặc đủ ấm. Không có sự khác biệt rõ rệt nào giữa mức sống ở thành phố và nông thôn. Hàng hóa khan hiếm. Ngoài xe đạp, phích nước và có thể là một chiếc radio, hầu hết mọi người có lẽ chỉ sở hữu rất ít đồ tiêu dùng. Tôi không nghĩ mình đã thấy quá vài chục chiếc ô tô ở Hà Nội. Khu trung tâm thành phố trông cũng không khác gì so với vùng ngoại ô. Thành phố sạch sẽ và yên tĩnh, trừ tiếng còi xe tải inh ỏi cảnh báo xe đạp tránh đường. Tôi từng nghe nói ở khắp nơi đều có loa phóng thanh phát tin tức và thông báo, nhưng tôi chỉ nhớ có một chiếc, đang phát nhạc trong công viên trung tâm. Diện mạo của thành phố thì buồn tẻ. Nguồn lực ít ỏi của đất nước phần lớn được chuyển về nông thôn. Một ngày nào đó, nếu chiến tranh kết thúc, Hà Nội sẽ là một thành phố đẹp, vì nơi đây có những con đường rợp bóng cây, nhiều hồ và công viên.

Điều khác biệt rõ nét nhất giữa Hà Nội và vùng nông thôn, tất nhiên, là sự tàn phá và đổ nát do “cuộc chiến tranh phá hoại trên không” gây ra. Bản thân Hà Nội, theo những gì tôi quan sát được, không bị đánh phá nặng nề, ngoại trừ khu vực gần sông Hồng, nơi cây cầu và vùng lân cận dường như đã bị đánh bom dữ dội. Nhưng ngay khi rời khỏi giới hạn thành phố, chúng tôi đã chứng kiến cảnh tàn phá nặng nề. Chúng tôi đi dọc theo quốc lộ chính về phía Thanh Hóa, cách đó khoảng 90 dặm về phía nam. Tác động của bom đạn hiện rõ ở khắp nơi. Từ bên đường, chúng tôi có thể thấy lối vào các hang động nơi dân cư, đặc biệt là trẻ em, được sơ tán trong thời kỳ đánh bom. Những căn nhà gỗ tạm bợ chen chúc dưới chân những quả đồi hình nón. Miệng hố bom dày đặc hơn mỗi khi có một cây cầu phía trước – đôi khi “cầu” chỉ dài vài thước. Nơi nào có cầu, thường có làng. Đường quốc lộ và tuyến đường sắt gần đó cũng bị ném bom nặng nề, và các nhà ga chỉ còn là đống đổ nát. Dĩ nhiên, các nhà ga thường nằm ở trung tâm của các thị trấn hoặc làng mạc.
Chính phủ Hoa Kỳ cố gắng tạo ấn tượng rằng các cuộc ném bom từ trên không có độ chính xác gần như phẫu thuật, sao cho các mục tiêu quân sự có thể bị phá hủy với tác động tối thiểu đến dân thường. Tuy nhiên, các tài liệu kỹ thuật lại cho thấy một bức tranh rất khác. Ví dụ, Đại úy C. O. Holmquist viết:
“Người ta tự hỏi tại sao cần nhiều phi vụ ném bom đến vậy chỉ để phá hủy một cây cầu hoặc một mục tiêu nhỏ khác… Tuy nhiên, ngay cả với hệ thống máy tính tinh vi nhất, ném bom ở bất kỳ chế độ nào vẫn là một quá trình vốn dĩ thiếu chính xác, như kết quả thực tế tại Việt Nam cho thấy. Lỗi nhắm, sai lệch góc ngắm, lỗi tính toán của hệ thống và sai số khi bom rơi đều góp phần làm giảm độ chính xác của hệ thống. Gió không xác định ở độ cao thấp hơn điểm thả bom và yếu tố “giảm hiệu quả chiến đấu” trong thực tế còn khiến sai số tăng thêm. Tóm lại, việc đánh trúng một mục tiêu nhỏ bằng bom là điều gần như không thể, trừ khi gặp may. Ném bom tỏ ra hiệu quả nhất khi nhắm vào các khu vực rộng lớn như kho tiếp tế, khu vực tập kết, và thành phố.” (Naval Review, 1969, tr. 214).
Lập luận của phía Mỹ rằng việc ném bom miền Bắc Việt Nam chỉ nhằm vào các mục tiêu quân sự không thể đứng vững trước điều tra trực tiếp. Nhưng ngay cả khi chấp nhận lập luận đó, những yếu tố mà Đại úy Holmquist nêu ra cũng cho thấy đây phần lớn là một sự phân biệt không mang nhiều ý nghĩa thực tế.
Một số cái tên dọc theo con đường khiến tôi thấy quen thuộc từ sách vở, ví dụ như Phủ Lý, cách Hà Nội khoảng 10s dặm về phía nam, nơi từng được các nhà báo Pháp và Nhật ghé thăm không lâu sau một trận ném bom đặc biệt tàn khốc. Tôi nhờ người bạn đồng hành – giáo sư Mai, nguyên là giáo sư văn học Pháp, Việt và Trung, hiện là Chủ tịch Hội Văn nghệ – chỉ cho tôi thấy trung tâm thị trấn khi chúng tôi đến nơi. Nơi từng là khu chợ, giờ chỉ còn là một bãi đất trống đầy gạch vụn nằm bên khúc sông uốn cong. Một vài tòa nhà bằng gạch và đá vẫn còn, nhưng phần còn lại của thị trấn đã bị xóa sổ. Phần lớn dân cư đã quay trở lại, và những ngôi nhà gỗ mọc lẫn lộn giữa đống đổ nát. Làng Phú Xuyên gần đó cũng trong tình trạng tương tự.

Bản thân Thanh Hóa là một tỉnh nông nghiệp trù phú. Những cánh đồng lúa trải dài thành hoa văn nhiều sắc xanh khác nhau, kéo dài tận chân trời dọc hai bên đường, con đường uốn lượn qua vùng đồi thấp và rìa của những khu rừng rậm, nơi được cho là vẫn có hổ đi lang thang. Thảm thực vật, dù là tự nhiên hay trồng trọt, đều rậm rạp và tươi tốt. Ngắm nhìn những người nông dân cày bừa ngoài đồng, các cậu bé dắt trâu đi qua, chúng tôi gần như quên mất chiến tranh – cho đến khi một cảnh tượng nhắc nhở bất ngờ hiện ra: một cánh đồng chi chít hố bom, đống đổ nát của một ngôi làng, xác một toa tàu lửa bị vặn xoắn. Chúng tôi dừng chân ăn trưa trên một sườn đồi có rừng thông, nơi vài người phụ nữ đang nhặt lá thông. Chủ nhà của chúng tôi cảnh báo rằng nếu muốn đi xa thì phải nhìn thật kỹ, vì vẫn còn rất nhiều bom chưa nổ.
Thành phố Thanh Hóa – thủ phủ của tỉnh, theo lời kể có khoảng 70.000 dân – đã bị đánh bom nặng nề. Các chi tiết được giáo sư Mai kể lại, ông từng là Chủ tịch tỉnh vào năm 1947 – 1948 và là một đảng viên bí mật của Đảng Cộng sản từ khi Đảng được thành lập vào năm 1930. Chúng tôi đi ngang qua tàn tích của trụ sở tỉnh, giờ đã bị phá hủy hoàn toàn. Một bức tường lớn của bệnh viện vẫn còn đứng đó. Một nhà máy ở thành phố Thanh Hóa cũng đã bị san phẳng; các phân xưởng của nó hiện đã được dời ra vùng nông thôn lân cận, ẩn trong các hang động. Một trạm điện gần đó cũng bị hư hại nặng, nhưng theo lời kể, chưa bao giờ ngừng hoạt động. Trong thành phố, công trình cũ hầu như chưa được tái thiết, nhưng dân cư dường như cũng đã quay lại sinh sống, với những ngôi nhà gỗ dựng lên khắp nơi bên cạnh những tàn tích và các tòa nhà còn lại.
Thanh Hóa gần biển, và chúng tôi lái xe đến một bãi biển khá đẹp. Không xa ngoài khơi, chúng tôi được cho biết rằng tàu chiến của Hạm đội 7 từng đóng ở đó và đã có nhiều trận pháo kích từ biển cũng như ném bom từ trên không. Cũng theo lời kể, từng có biệt kích và gián điệp đổ bộ vào khu vực này, nhưng bị bắt ngay sau đó. Những chiếc thuyền gỗ đánh cá xếp dọc bãi biển. Trước đây từng có một khu nghỉ mát trên các ngọn đồi xung quanh, nhưng đã bị phá hủy trong các đợt ném bom.
Gần thành phố Thanh Hóa, cầu Hàm Rồng bắc qua sông Mã. Đây là cây cầu lớn nhất mà chúng tôi băng qua, nay chỉ còn là một cấu trúc ọp ẹp với thép vặn xoắn và bê tông vỡ vụn. Xe cộ chỉ có thể nhích từng chút qua một làn đường duy nhất. Một buổi tối, dưới ánh đèn chập chờn mờ ảo trong trụ sở tỉnh lỵ – giờ được giấu gần một ngôi làng cách thành phố Thanh Hóa một đoạn và trông không khác gì các cụm nhà dân xung quanh – chúng tôi được kể câu chuyện về cây cầu. Sau đó, chúng tôi được xem một cuốn phim ghi lại những sự kiện ấy. Người dẫn chuyện là cô Hàm, 25 tuổi, đội trưởng dân quân thị xã Thanh Hóa. 5 năm trước, cô là đội trưởng dân quân của ngôi làng tại nơi đặt cây cầu Hàm Rồng.
Cây cầu bị tấn công hằng ngày từ đầu năm 1965 cho đến khi chiến dịch ném bom bị tạm ngưng – tại khu vực này là vào tháng 4/1968. Cầu cùng khu vực xung quanh bị đánh bom bằng chất nổ mạnh và ngư lôi từ trên không, đồng thời bị pháo kích từ các tàu ngoài khơi. Trong những trận chiến đó, 99 máy bay phản lực đã bị bắn rơi. Một quả đồi dốc bên cạnh cây cầu đã bị san bằng đến hai phần ba vì bom đạn. Ngôi làng gần đó bị phá hủy, nhiều người thương vong.

Ngày hôm sau, chúng tôi quay lại cầu, lần này có sự tháp tùng của người đứng đầu chi nhánh địa phương của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Theo cảm nhận của tôi thì ông chỉ trạc 30 tuổi, nhưng chắc hẳn ông nhiều tuổi hơn thế nhiều, vì ông có con trai 17 tuổi đang là sinh viên đại học ở Hà Nội. Khi chúng tôi đứng bên cây cầu trong gió mùa se lạnh, ông kể lại những nét chính của câu chuyện. Ngọn đồi cạnh cây cầu, nơi cắm một lá cờ trên đỉnh, quả thật nhỏ hơn nhiều so với hình ảnh trong cuốn phim chúng tôi xem tối hôm trước. Sườn đá bị xé nát, đất đá lởm chởm. Từ chỗ chúng tôi đứng nhìn ra tới dãy đồi xa xa là những cánh đồng trơ trụi. Không còn dấu vết nào của ngôi làng trước kia. Khu vực này bị ném bom dày đặc đến mức mặt đất không còn hố bom rõ ràng như dọc các tuyến đường khác. Trên cánh đồng đầy vết thương, chỉ còn trơ lại khung của tòa nhà từng là trạm phát điện. Trên sườn đồi phía xa khắc dòng chữ lớn, có thể lờ mờ nhìn thấy từ nơi chúng tôi đứng, là dòng chữ: “Quyết thắng”.
Cây cầu vẫn đứng đó, dù bị hư hại nặng, vẫn hiên ngang và đầy thách thức, trở thành biểu tượng có ý nghĩa sâu sắc với người dân Thanh Hóa. Khung cảnh ấy, hơn bất kỳ điều gì khác, đã tóm gọn tinh thần của những con người mà tôi gặp – từ Thủ tướng, sinh viên đại học, công nhân nhà máy đến nông dân nơi thôn dã. Theo như tôi cảm nhận, đất nước này tuy nghèo nhưng thống nhất, vững vàng, và quyết tâm chống chọi lại cuộc tấn công do siêu cường phương Tây phát động chống lại Việt Nam.
Người Việt nhìn nhận lịch sử của mình như một chuỗi dài những cuộc kháng chiến bất tận chống lại sự xâm lược – từ người Trung Quốc, Mông Cổ, Nhật Bản, Pháp, cho đến người Mỹ. Lịch sử ấy được nhắc đi nhắc lại với chúng tôi. Hàng chục lần, chúng tôi được kể về những lần đánh lui quân Trung Hoa, về việc quân Mông Cổ – đội quân từng chinh phục hầu hết châu Á và châu Âu – đã không thể vượt qua dãy núi Annam để tiến vào Việt Nam vì vấp phải sự kháng cự dữ dội của nông dân Việt Nam, những người đã biết đoàn kết chống ngoại xâm ngay từ thời phong kiến. Giám đốc Bảo tàng Lịch sử dẫn chúng tôi qua các hiện vật, bắt đầu từ thời kỳ đồ đá, trong khi các thành viên trong đoàn của chúng tôi lắng nghe một cách say mê, chăm chú từng chi tiết về nền văn hóa cổ xưa và từng trận đánh, từng chiến dịch. Tại Bảo tàng Quân đội, tình hình cũng tương tự. Thật khó đoán rằng những người đi cùng chúng tôi đã từng nghe những chuyện này nhiều lần, bởi họ vẫn chăm chú nghe từng lời như thể đó là lần đầu tiên.
Người Việt xem lịch sử của mình như một chuỗi chiến thắng, mỗi chiến thắng đến sau một cuộc đấu tranh kéo dài. Một cách nhìn ít lạc quan hơn sẽ thấy rằng đó là những khoảng thời gian độc lập ngắt quãng trong một lịch sử bị đô hộ bởi các thế lực ngoại bang. Điều đáng chú ý là người Việt không nhìn nhận lịch sử của mình theo cách ấy. Tôi tin chắc rằng nếu tôi đưa ra quan điểm đó, họ sẽ thấy điều ấy kỳ lạ, thậm chí là lệch lạc. Cũng không thể nhầm lẫn sự tự tin của họ khi nói về tương lai.
Chúng tôi đã dành một buổi chiều để thảo luận về tình hình hiện tại với người đứng đầu “Phái đoàn Đặc biệt” của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam[2]. Tại đây, chúng tôi gặp một số nạn nhân chiến tranh, những người bị thương tật nghiêm trọng từ miền Nam, đang ở Hà Nội để điều trị dài hạn. Các đại diện của Chính phủ Cách mạng Lâm thời ở Hà Nội dự đoán một cuộc chiến dài lâu và khốc liệt tại miền Nam. Họ cho rằng Hoa Kỳ sẽ duy trì một lực lượng từ 200.000 đến 250.000 quân, đồng thời tiếp tục chỉ huy và hậu thuẫn cho một “đội quân bù nhìn” khoảng 800.000 người, và vẫn đẩy mạnh hoặc thậm chí mở rộng cuộc chiến tranh công nghệ cao. Họ tính toán rằng dưới thời Johnson, khoảng hai triệu tấn bom đã được thả xuống miền Nam, còn chính quyền Nixon thì đã đạt mức 1,2 triệu tấn trong khi gia tăng mức độ chiến tranh hóa học.
Họ cho rằng mục tiêu của chương trình “bình định” là gom dân vào những khu vực có thể kiểm soát bằng vũ lực, bao quanh bởi vành đai “vùng đất chết” bị tàn phá. Họ tin rằng chính sách này không thể thành công, rằng nội bộ các vùng do chính quyền Sài Gòn – ngày càng độc đoán và đàn áp – quản lý sẽ mục ruỗng dần. Họ kỳ vọng vào một Chính phủ liên hiệp có khả năng tổ chức bầu cử tự do để bầu ra một Quốc hội toàn quốc. Trong các cuộc trao đổi, họ có nhắc đến những nhân vật như Dương Văn Minh và Trần Văn Đôn như những đại diện tiềm năng của “lực lượng thứ ba”, mà theo cách hiểu của tôi, họ cảm thấy có thể hợp tác. Nhưng họ không thấy có dấu hiệu nào cho thấy Hoa Kỳ sẵn sàng cho phép thành lập một chính phủ liên hiệp thực sự đại diện cho người dân miền Nam.
Tôi tin rằng ban lãnh đạo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng dự đoán một cuộc chiến kéo dài và liên tục, và họ không thấy bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy Hoa Kỳ sẽ từ bỏ nỗ lực khuất phục miền Nam Việt Nam cũng như mưu đồ thống trị bán đảo Đông Dương. Họ không thấy sự nghiêm túc nào từ phía Hoa Kỳ tại bàn đàm phán Paris, và họ diễn giải mọi đề xuất của Hoa Kỳ – theo tôi là hoàn toàn đúng – như những mưu kế khác nhau nhằm duy trì chế độ “bù nhìn” của Mỹ tại miền Nam.
Họ dự đoán rằng việc ném bom miền Bắc có thể sẽ được nối lại nếu vị thế của Mỹ bị suy yếu tại các nơi khác trong khu vực. Tuy nhiên, họ tin tưởng rằng vị thế của Mỹ sẽ ngày càng xấu đi.
Một phần vì khả năng chiến tranh không kích có thể tái diễn, nên các thành phố không được tái thiết, và các nhà máy vẫn tiếp tục phân tán. Mặc dù miền Bắc Việt Nam có tiềm năng lớn để phát triển thủy điện, nhưng không có con đập nào đang được xây dựng. Bên cạnh thiệt hại trực tiếp do chiến tranh gây ra, thì chỉ riêng mối đe dọa về chiến tranh tiếp diễn cũng đã là một rào cản lớn cho phát triển và công nghiệp hóa.

Một buổi tối, chúng tôi trò chuyện với ông Hoàng Tùng, Tổng Biên tập báo Nhân Dân, tờ báo lớn nhất của miền Bắc Việt Nam, đồng thời là Ủy viên Trung ương Đảng Lao động từ năm 1950. Vào thập niên 1930, ông tham gia phong trào thanh niên và bị giam từ năm 1940 đến 1945, cho đến khi Nhật đảo chính chính quyền thực dân Pháp. Ông phụ trách khu vực Hà Nội trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, sau đó tiếp tục tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp tại vùng đồng bằng sông Hồng.
Ông cũng kể lại cho chúng tôi diễn biến của lịch sử Việt Nam, mô tả tổ chức chính trị – xã hội hiện tại cũng như các kế hoạch phát triển trong tương lai. Ông nói nhỏ nhẹ, đầy cảm xúc, về những cuộc chiến đấu lâu dài, về nỗi đau của nhân dân, và về những vấn đề vẫn còn phía trước đang chờ đất nước giải quyết.
Ông nói: “Bọn xâm lược đã buộc toàn thể nhân dân chúng tôi phải đứng lên chiến đấu, hoặc chấp nhận cái chết. Đất nước chúng tôi và các nước khác ở Đông Dương đã trải qua đủ mọi chính sách và hình thức chiến tranh. Chúng tôi là bãi thử nghiệm cho người Pháp, người Nhật, và bây giờ là người Mỹ. Chúng tôi cho rằng, trong toàn bộ lịch sử, chưa từng có một dân tộc nào phải chịu đựng nhiều kiểu chiến tranh như vậy.
Chỉ riêng Hoa Kỳ thôi. Họ đã thử “ấp chiến lược”, chiến tranh đặc biệt của Kennedy, chiến tranh cục bộ của Johnson, và rồi chiến tranh đặc biệt-cục bộ dưới thời Nixon. Chúng tôi đã phải đối phó với đủ mọi lý thuyết và học thuyết quân sự. Nhưng dân tộc chúng tôi không bị tiêu diệt. Thực tế là, đế quốc Mỹ đã tung ra mọi lực lượng mà họ có thể huy động. Hãy nói về ấp chiến lược – đó là một nỗ lực lớn. Họ đã phá hủy hàng chục nghìn làng mạc và cưỡng ép hàng triệu người rời đi. Sau đó, họ đổ bộ nửa triệu quân. Rồi tiến hành cuộc chiến tranh không quân đánh ra miền Bắc. Chúng tôi chưa từng thấy trong lịch sử một sự tập trung hỏa lực nào lớn như vậy. Riêng ở miền Nam Việt Nam đã có ba triệu tấn bom, chưa kể các loại vũ khí khác. Điều này vượt xa Thế chiến II.
Người Việt Nam chúng tôi là một dân tộc nhỏ. Chỉ có 37 triệu người. Nhưng giờ đây chúng tôi đã đi đến chặng này. Chúng tôi có thể đi đến cùng”.
Ông nói thêm: “Năm 1954, chúng tôi đã không đủ cảnh giác; chúng tôi không ngờ sẽ có thêm một cuộc chiến tranh nữa”. Nhưng giờ đây, ông nói, người ta đã hiểu rằng các lực lượng cầm quyền ở Mỹ không muốn để châu Á cho chính người châu Á quản lý. Nixon có thể sẽ thành công trong việc tập hợp các lực lượng phản động ở châu Á, nhưng các lực lượng chống đế quốc cũng sẽ cùng nhau tập hợp. Cuộc đấu tranh sẽ còn kéo dài: giữa các lực lượng phản động và các lực lượng quần chúng trong khu vực. Nhưng tinh thần dân tộc ở châu Á rất cao, và các lực lượng phản động sẽ không thể chiến thắng.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng nói cùng một tinh thần như vậy. Ông cho rằng Tổng thống Nixon dường như đang muốn mở rộng chiến tranh. Campuchia là một ví dụ[3]. Nhưng “phù thủy không phải lúc nào cũng kiểm soát được những gì mình đã tạo ra”. Hoàng thân Sihanouk đã kêu gọi đấu tranh vũ trang, và ba dân tộc ở Đông Dương giờ đây sẽ cùng nhau kết hợp trong cuộc kháng chiến yêu nước. “Cuối cùng, công lý sẽ là yếu tố quyết định, và công lý sẽ chiến thắng”.
[…]
Sau một buổi gặp gỡ dài và hiệu quả, tôi được mời giảng về các công trình nghiên cứu hiện tại trong ngành ngôn ngữ học tại Đại học Bách Khoa, và đã giảng suốt khoảng 7 tiếng đồng hồ trước một nhóm khoảng 70 đến 80 nhà ngôn ngữ học và toán học.
Công trình nghiên cứu của họ, trong lĩnh vực khoa học học thuật khá chuyên biệt này, đạt tiêu chuẩn quốc tế. Tôi giảng bài gần như cách tôi vẫn giảng ở Tokyo, Oxford hay Sorbonne. Họ chưa quen thuộc với những nghiên cứu mới nhất do thiếu tài liệu, nhưng tôi tin rằng họ có thể bắt kịp nếu khắc phục được vấn đề này – và việc giúp họ khắc phục vấn đề ấy, trong mọi lĩnh vực, là một nỗ lực nhỏ mà người Mỹ có thể thực hiện trong nhiệm vụ gần như bất khả là đền bù cho sự tàn phá đối với những gì mà người Việt Nam đã tạo dựng nên bằng nghị lực, sự cần cù và lòng quả cảm phi thường.
Tôi thấy bất ngờ khi mình lại đang giảng bài về các vấn đề chuyên môn ở Hà Nội và dành hàng giờ đồng hồ để thảo luận với các đồng nghiệp về các công trình nghiên cứu đang diễn ra tại Hoa Kỳ. Sự bất ngờ này phản ánh sự thất bại của chính tôi trong việc vượt qua những định kiến đáng tiếc. Người Việt không chỉ đang chiến đấu quyết liệt để bảo vệ nền độc lập của mình, mà còn đang kiến tạo một xã hội hiện đại với trình độ văn hóa chung rất cao. Nếu được trao cơ hội, tôi tin chắc rằng họ sẽ thành công. Được gặp gỡ các đồng nghiệp Việt Nam, được khám phá những mối quan tâm chung và tìm hiểu về công trình cũng như kế hoạch của họ là một niềm vui cá nhân rất lớn đối với tôi.
Trong di chúc của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết rằng, dù cuộc chiến có thể kéo dài và dù có thể phải hy sinh thêm nữa, thì “sông núi nước ta, con người nước ta sẽ còn mãi”. Với vũ khí hạt nhân, Hoa Kỳ có thể hủy diệt những hy vọng ấy, nhưng trừ điều đó ra, tôi nghi ngờ việc Hoa Kỳ có thể khuất phục được tinh thần kháng cự của người Việt Nam hay có thể áp đặt một chính quyền bù nhìn lên nhân dân Đông Dương.
Tôi rời Đông Nam Á, sau một thời gian ngắn lưu lại, với hai ấn tượng bao trùm. Ấn tượng đầu tiên là về sức sống mạnh mẽ và khả năng bền bỉ của xã hội Việt Nam. Có thể tưởng tượng rằng Hoa Kỳ có thể phá vỡ ý chí của các phong trào quần chúng ở những quốc gia xung quanh, thậm chí có thể tiêu diệt Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, bằng cách sử dụng những nguồn lực khổng lồ về bạo lực và khủng bố mà họ nắm trong tay. Nếu điều đó xảy ra, thì miền Bắc Việt Nam sẽ trở thành lực lượng chi phối Đông Dương, vì sẽ không còn xã hội nào khác có thể vận hành được nữa.
Cuộc can thiệp của Mỹ, giống như mọi cuộc chiến tranh đế quốc khác, đã khuấy động hận thù sắc tộc và giai cấp, đẩy các nhóm người chống lại nhau, làm trầm trọng thêm mọi xung đột tiềm tàng cho đến mức đổ máu. Người Việt và người Thái – hai xã hội mạnh mẽ và năng động nhất trong khu vực – giờ đây gần như đang ở trong tình trạng chiến tranh. Quân đội Campuchia đã thảm sát người Việt. Người Mèo bị kích động chống lại người Lào và các tộc người miền núi khác. Người Thái đang xua đuổi các tộc người miền núi ra khỏi nơi cư trú và lo sợ người Lào bản địa. Giới tinh hoa ở Thái Lan và Sài Gòn đang lập kế hoạch nuốt chửng Campuchia. Quân đội Quốc dân Đảng Trung Hoa vẫn còn hoạt động ở các vùng biên giới. Lính đánh thuê Khmer chiến đấu cùng quân Thái và Hàn Quốc sát cánh với Mỹ chống lại Việt Cộng. Các tầng lớp tinh hoa bản địa, sống dựa vào dòng chảy hàng hóa Mỹ và chi tiêu chiến tranh, đã bị cuốn vào một cuộc chiến tàn khốc chống lại nông dân.

Không phải tất cả những điều này đều là hệ quả trực tiếp từ cuộc chiến tranh của Mỹ tại Đông Dương, nhưng không thể phủ nhận rằng mọi xung đột tiềm ẩn, mọi hình thức thù địch âm ỉ, đều đã bị khoét sâu thêm bởi cuộc can thiệp của Mỹ – thường là một cách có chủ đích và được thao túng trực tiếp. Ngay cả nếu Hoa Kỳ rút khỏi Đông Dương, trao lại quyền tự quyết cho nhân dân nơi đây – một viễn cảnh hiện tại vẫn chưa có dấu hiệu nào – thì di sản của hận thù này vẫn sẽ còn đó, tiếp tục gây khổ đau cho cuộc sống của người dân Đông Dương và tước đi hy vọng về một tương lai xứng đáng.■
Noam Chomsky[1]
Thanh Trà (dịch)
Chú thích:
[1] Noam Chomsky (sinh năm 1928) là một triết gia, nhà hoạt động chính trị và nhà phê bình xã hội người Mỹ, được coi là một trong những trí thức có ảnh hưởng nhất thế giới. Ông nổi tiếng với những phân tích sắc bén về chính sách đối ngoại của Mỹ, chủ nghĩa tư bản và truyền thông. Ông cũng là một trong những tiếng nói phản đối mạnh mẽ cuộc chiến tranh Việt Nam, lên án các hành động can thiệp quân sự và chính sách đối ngoại mang tính đế quốc của Mỹ. Không chỉ dừng lại ở việc phê phán, Chomsky còn tham gia nhiều phong trào phản chiến và bảo vệ quyền con người. Những quan điểm của ông, dù gây tranh cãi, vẫn có ảnh hưởng sâu rộng và tiếp tục truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ nhà hoạt động và trí thức trên toàn thế giới.
[2] Tôi đoán rằng Chính phủ Cách mạng Lâm thời (PRG) không có Đại sứ quán là vì họ hy vọng sẽ tham gia vào một Chính phủ liên minh rộng lớn hơn cho miền Nam Việt Nam
[3] Nói đến cuộc đảo chính ngày 18/3 và các cuộc tấn công sau đó ở Campuchia do quân đội Sài Gòn tiến hành. Cuộc phỏng vấn này được thực hiện vào ngày 16/4, hai tuần trước cuộc xâm lược Campuchia của Hoa Kỳ. Một hình thức can thiệp trực tiếp của Mỹ vào Campuchia rõ ràng đã được dự đoán trước, mặc dù có thể quy mô của cuộc xâm lược đã gây ra đôi chút ngạc nhiên.